Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2015

Mô hình Servqual đánh giá chất lượng dịch vụ của khách sạn và biến thể Servperf



Đối với sản phẩm hữu hình, chất lượng được đo lường bởi các tiêu chí


mang tính chất định lượng như: độ bền, tính năng kỹ thuật, các số đo như độ dài,


ngắn, nặng, nhẹ, màu sắc hay số lượng phế phẩm ..


Đối với sản phẩm dịch vụ nói chung và dịch vụ khách sạn nói riêng,


chúng ta khó có thể đo lường chất lượng dịch vụ bằng những tiêu chí định lượng


bởi những đặc điểm riêng biệt của sản phẩm dịh vụ khách sạn.


Ông Parasuraman đã đưa ra một cách tiếp cận mới – mô hình Servqual


để đo lường chất lượng dịch vụ một cách gián tiếp.


Trọng tâm của mô hình này là khoảng cách hay sự chênh lệch (GAP)


giữa sự mong đợi của khách hàng và sự cảm nhận của họ về dịch vụ. Dựa trên sự


chênh lệch này, khách hàng sẽ có cảm giác hài lòng hay không hài lòng về dịch


vụ mà họ nhận được.


Theo mô hình Servqual, chất lượng dịch vụ dựa trên khoảng cách giữa


sự mong đợi của khách hàng về dịch vụ và sự cảm nhận thực tế khách hàng nhận


được sau khi tiêu dùng sản phẩm. Khoảng cách này thể hiện trên GAP 5 của mô


hình, là khoảng cách giữa sự mong đợi và cảm nhận của khách hàng về chất


lượng dịch vụ của khách sạn. Mục tiêu kinh doanh dịch vụ khách sạnlà xóa bỏ hoặc ít nhất là thu hẹp khoảng cách này đến mức nhỏ nhất có thể. Áp dụng mô hình này cũng chỉ ra nhiều thách thức đối với các khách sạn khi muốn nâng cao chất lượng dịch vụ


của mình.


Trong mô hình Servqual, biện pháp này được thể hiện ở những nỗ lực để xóa bỏ hoặc thu hẹp các khoảng cách 1, 2, 3 và 4. Điều đó sẽ giúp các doanh


nghiệp khách sạn giảm bớt khoảng cách thứ 5 (GAP 5). Bốn khoảng cách đó là:


-        Khoảng cách 1 (GAP 1) là khoảng cách giữa sự mong đợi thật sự


của khách hàng và nhận thức của nhà quản lý khách sạn về điều đó. Nếu khoảng


cách này lớn tức là nhà quản lý khách sạn không biết khách hàng mong đợi gì. Vì


vậy hiểu chính xác khách hàng mong đợi gì là bước đầu tiên và là quan trọng


nhất trong việc cung cấp dịch vụ có chất lượng đối với một khách sạn.


-        Khoảng cách 2 (GAP 2) là khoảng cách giữa sự hiểu biết của nhà


quản lý khách sạn về những gì khách hàng mong chờ với việc chuyển hóa chúng


vào trong các tiêu chuẩn của dịch vụ (hay không lựa chọn đúng tiêu chuẩn dịch


vụ).


-        Khoảng cách 3 (GAP 3) là khoảng cách giữa các tiêu chuẩn chất


lượng dịch vụ được thiết lập của doanh nghiệp khách sạn với chất lượng dịch vụ


thực tế khách sạn cung cấp ra thị trường (hay không cung cấp dịch vụ đúng theo


các tiêu chuẩn đã xác định)


-        Khoảng cách 4 (GAP 4) là khoảng cách giữa chất lượng dịch vụ


được cung cấp với những thông tin, quảng cáo hay lời hứa mà doanh nghiệp


khách sạn đem đến cho khách hàng (hay khách sạn không thực hiện lời hứa).


Dựa vào mô hình này, Parasuraman và các cộng sự đã giới thiệu thang


đo Servqual gồm 10 thành phần: phương tiện hữu hình, tin cậy, đáp ứng, năng


lực phục vụ, tiếp cận, ân cần, thông tin, tín nhiệm, an toàn và thấu hiểu. Thang đo này bao quát hầu hết mọi khía cạnh của dịch vụ, tuy nhiên thang đo cho thấy có


sự phức tạp trong đo lường, không đạt giá trị phân biệt trong một số trường hợp.


Do đó, các nhà nghiên cứu này đưa ra thang đo Servqual gồm 5 thành phần với


22 biến quan sát, cụ thể các thành phần như sau:


Phương tiện hữu hình (Tangibles): sự thể hiện bên ngoài của cơ sở


vật chất, thiết bị, nhân viên và vật liệu, công cụ thông tin.


 




Mô hình Servqual đánh giá chất lượng dịch vụ của khách sạn và biến thể Servperf

Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2015

Khách sạn Hà Nội Horison và quy trình chăm sóc khách



Căn cứ vào ví dụ trên ta thấy nhân viên buồng phải làm công việc về chuẩn bị các đồ dùng đặt phòng và dụng cụ vệ sinh. Song để có được các đồ dùng và dụng cụ đủ khi làm vệ sinh thì trước lúc tiến hành vệ sinh phòng phải kiểm tra xem trong xe đẩy của tầng mình có đủ các dụng cụ đồ dùng đặt phòng làm vệ sinh chưa. Nếu thiếu thì xuống kho để nhận đồ. Trong trường hợp trong kho hết thì có thể đi các tầng khác lấy hoặc tầng khác còn nhiều hoặc tạm thời ghi vào báo cáo để bổ xung sau.


 


Ví dụ: Phòng 704 khi làm phòng thiếu một khăn mặt thì sau đó sẽ đặt vào cho khách sau. Khi giao nhận vật tư cho tổ buồng phải có orderr (phiếu lĩnh hàng) với nội dung bao gồm đầy đủ các mục, chủng loại, số lượng, chất lượng, ngày – giờ giao nhận người nhận ký.


- Công việc chuẩn bị dụng cụ làm vệ sinh bao gồm:


+ Chuẩn bị máy hút bụi


+ Túi rác, túi vệ sinh


+ Túi giặt là


+ Khăn lau các loại


+ Bàn chải cọ dùng đề cọ cầu bệt


+ Sponge để cọ rửa cốc tách, bốn tắm, lavabo


+ Nước hoa xịt phòng


+ Các loại chất tẩy rửa


+ Găng tay cao su một số dụng cụ khác.


- Chuẩn bị đồ dùng thay thế.


+ Ga hai loại ga king cho phòng đơn


ga tuyn cho phòng đôi


+ Vỏ gối mỗi phòng 4 vỏ gối


+ Khăn tắm mỗi phòng hai chiếc


+ Khăn mặt mỗi phòng hai chiếc


+ Khăn tay mỗi phòng hai chiếc


+ Khăn chân mỗi phòng một chiếc


+ Dép đi trong nhà


+ Nước lọc Joy, nếu là phòng đơn 1 người thì ***


+ Diêm, 1 chai, phòng hai người (phòng đôi mỗi phòng hai chai.


+ Chè lipton, chè nhài, mỗi phòng mỗi thứ hai gói


+ Cà phê đen, cà phê sữa, mỗi thứ 1 phòng hai gói


+ Đường trắng, đường đổ, 1 phòng mỗi thứ hai gói


+ Sữa khô, mỗi phòng hai gói


+ Giấy vệ sinh


+ Giấy lau tay


+ Bàn chải đánh răng + thuốc đánh răng, mỗi phòng đơn 1 chiếc, phòng đôi hai chiếc.


+ Xà phòng mỗi phòng hai bánh con


+ Dầu gội đầu: mỗi phòng một lọ


+ Sữa tắm mỗi phòng 1 lọ


+ Xà phòng thơm mỗi phòng 1 lọ


+ Kim chỉ, chụp đầu, bông ngoáy tai, mỗi thứ một cái, 1 phòng giấy, bút, tập gấp…


+ Lược mỗi phòng một chiếc


+ Rũa móng tay, dao cạo râu dùng cho phòng vip


+ Đón gát giầy và cái đánh giày




Khách sạn Hà Nội Horison và quy trình chăm sóc khách

Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015

IỚI THIỆU CHUNG VỀ HÀ NỘI HORISON HOTEL



Vị trí của khách sạn :


 


Hà Nội Horison hiện nay là một trong những khách sạn lớn của thành phố Hà Nội, có vị trí địa lí rất thuận lợi tại số 40 phố Cát Linh – Hà Nội. Khách sạn được xây dựng trên khu đất có diện tích sử dung trên 4000m2,nằm trên trung tâm của thủ đô.Khách sạn có bãi đỗ xe rộng rãi và an toàn , chỉ cách sân bay quốc tế Nội Bài 35 km, cách ga Hà Nội 2 km. Từ Hà Nội Horison quý khách có thể đến thăm khu di tích lịch sử văn hóa hàng đầu của thủ đô mà chỉ mất vài phút. Hà Nội Horison là điêm dừng chân lý tưởng của du khách với các dịch vụ và chất lượng phục vụ đạt tiêu chuẩn 5 sao luôn chờ đón quý khách.


 


2.Lịch sử hình thành và phát triển của khách sạn:


Bắt đầu từ năm 1997 khách sạn Hà Nội Horison là sự đầu tư lớn của công ty TNHH Global Toserco, một công ty liên doanh giữa Indonesia PT Global Metropolital Development và Hà Nội Tourism sevicePT Metropol Company Global. Development Jarkata là một doanh nghiệp kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau, không chỉ trong lĩnh vực xây dựng bất động sản mà còn cả trong lĩnh vực thương mại du lịch, chăm sóc sức khỏe và quản lí tài chính. Khách sạn năm sao Hà Nội Horison là sự đầu tư đầu tiên trong lĩnh vưc khách sạn ngoài đất nước Indonesia và là mục tiêu của tổ chức để mở rộng đầu tư vào lĩnh vực khách sạn trên phạm vi quôc tế. Hà Nội tourism Servicce Company là một công ty nhà nước . Năm 1986, ngay từ khi đầu tư nó đẫ là một tổ chức du lịch đa dịch vụ . Đã tham gia vào hot động Horison cũng góp phần cung cấp vốn cho các khách sạn khác ở Hà Nội .


Là một khách sạn quốc tế năm sao, trong sự phát triển không ngừng của ngành du lịch khách sạn nói chung và nhu cầu đi du lịch ngày càng tăng của con người. Khách du lịch có thể là những đoàn tour du lịch, khách du lịch, hội thảo,…đư đến đối tượng khách đa dạng. Do đó, để đáp ứng nhu cầu trên Hà Nội Horison không chỉ có mạng lưới hoạt động trong nước mà còn trên cả thế giới. Khách sạn có một hệ thống đạt phòng từ những hang , đại lí trên thế giới như: Smissair, Grossair, Austrian Airline,Worldpan, Sahara.


Từ bảng số liệu trên ta thấy cơ cấu lao động của khách sạn được phân bổ tương đối hợp lí vì đây là một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ nên tỉ lệ lao động gián tiếp nhỏ hơn tỉ lệ lao động trực tiếp.


Hiên nay , toàn bộ hệ thống kinh doanh của khách ssanj được chia lam 8 bộ phận , mỗi bộ phận gắn liền với chức năng hoạt động hình thành 1 hệ thống các dịch vụ trong khách sạn. Đứng đầu mỗi bộ phận là các giám đốc , các dịch vụ có liên quan chạt chẽ với nhau sản phẩm của khách sạn là công sưc đóng góp của các bộ phận và trở thanh mối quan hệ khăng khít giữa các tổ , tạo ra được nhiều khâu phục vụ. Với mô hình quản lí trên khách sạn đã giảm được các khâu chông chéo và phân được rõ ràng các chức năng của từng bộ phận. Chính vì thế ta thấy mô hình quản lí tổ chức đơn giản , gọn nhẹ nhưng vẫn hợp lí,


 


 


 


        




IỚI THIỆU CHUNG VỀ HÀ NỘI HORISON HOTEL

Thứ Năm, 21 tháng 5, 2015

Dịch bệnh kìm hãm ngành du lịch toàn cầu



        Dịch bệnh : không những ảnh hưởng đến sức khỏe của một nước mà gây ảnh hưởng rất lớn đến tất cả các ngành nghề kinh doanh trong kinh doanh du lịch nói chung và kinh doanh nhà hàng khách sạn những lĩnh vực phải chịu nhiều tổn thất nhất từ nó. Những quốc gia, địa phương có dịch bệnh làm cho khách du lịch không dám tới tham quan gây ảnh hưởng cho ngành kinh doanh khách sạn. Năm vừa rồi đại dịch cúm A/H1N1 hoàn hành toàn cầu đã gây ảnh hường rất lớn đến ngành du lịch của nước ta. Tất cả mọi người, không khách du lịch, khách mice, công ty… đều hủy tất cả các chuyến du lịch vì lo sợ cho sức khỏe đồng thời hải quan các nước cũng hạn chế cho những người từ những vùng có dịch bệnh. Kinh doanh khách sạn cũng bị ảnh hường rất chậm trọng. Năm 2009, chỉ có 218.000 lượt khách quốc tế đến Nha Trang, giảm hơn 10% so với cùng kỳ năm trước. Lần đầu tiên trong nhiều năm qua, ngành du lịch Khánh Hòa có sự giảm sút về lượng khách quốc tế nhiều như vậy, Khách quốc tế đến Khánh Hòa trong năm 2009 đã về mức âm, và ngành du đã mất hơn 22.000 lượt khách quốc tế. Ông Lâm Duy Anh Cường – Phó Giám đốc Công ty Du lịch Hải Dương, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Khánh Hòa cho biết: “Theo số liệu của Tổng cục du lịch, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam giảm khoảng 11% – một con số khá cao so với mức giảm 5% của khu vực châu Á – Thái Bình Dương (theo số liệu của PATA). Số liệu này chỉ mô tả mức suy giảm chung của khách quốc tế đến Việt Nam. Riêng đối với khách du lịch quốc tế ở phân khúc khu nghỉ dưỡng cao cấp 5 sao thì mức độ suy giảm nặng nề hơn, từ 20% - 30%. Nhiều khu nghỉ mát cao cấp ở Khánh Hòa như Ana Mandara, Sunrise, Vinpearland, … cũng không tránh khỏi tác động của cuộc khủng hoảng”. Ngành du lịch của tỉnh nói trung và kinh doanh khách sạn nói riêng bị thua lỗ nặng. Hiện nay, tuy đã không còn trong tình trạng khẩn cấp như trong năm 2009 nhưng nó vẫn luôn là mối đe dọa cho kinh doanh khách sạn. Ngoài ra vào các mùa hè thì dịch bệnh càng nhiều như dịch tả, cúm gia cầm, dịch heo tai xanh. Do đó dịch bệnh luôn là nỗi sợ cho các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn. Vì mọi người luôn đặt sức khỏe của bản thân mình và gia đình lên làm đầu. Nếu được cảnh báo là dịch bệnh đang hoành và không nên đến những nơi có nhiều người tụ tập thì họ sẽ quyết định ở nhà không đi đâu. Đây là một thách thức lớn đối với ngành kinh doanh khách sạn.




Dịch bệnh kìm hãm ngành du lịch toàn cầu

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Các hoạt động marketing của khách sạn Long Beach Nha Trang



Do quy mô khách sạn chỉ dừng lại ở 3 sao nên chưa có bộ phận nghiên cứu Marketing chuyên biệt, do đó các công tác marketing đều do phòng kinh doanh làm việc và thông qua chủ khách sạn. Hoạt động marketing của Long Beach như sau


Thương hiệu, chiến lược sản phẩm


        Khách sạn Long Beach đi vào hoạt động mới có hai năm nên không thể cạnh tranh về thương hiệu như những khách sạn đã có vị trí trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn – Nhà hàng. Thương hiệu có ý nghĩa hết sức quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh nên. Nên mục tiêu của Long Beach trong tương lai sẽ đạt được một vị thế nhất định trong kinh doanh khách sạn.


        Ra đời sau nên phải chịu thua kém về thương hiệu, mặt khách thì Long Beach lại học được rất nhiều kinh nghiệm về kinh doanh khách sạn. Với nguồn lực sẵn có và nhìn thấy được các dịch vụ kèm theo cần thiết trong kinh doanh khách sạn nên ngay từ đầu khách sạn đã đầu tư trang thiết bị, các dịch vụ tốt nhất với các cơ sở hiện đại nhất để đáp ứng được các đòi hỏi khắc khe nhất. Đây là điểm thuận lợi của khách sạn Long Beach.


1         Giá cả


Khi xây dựng chủ khách sạn đã sử dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại làm giảm chi phí đầu tư ban đầu. Nên ngoài giá phòng là ngang bằng với các khách sạn cùng sao còn ngoài ra giá cả các dịch vị kèm theo luôn rẽ hơn so với các khách sạn khác. Giá cả các loại phòng thay đổi theo mùa du lịch và các thời điểm du lịch cao điểm.




Các hoạt động marketing của khách sạn Long Beach Nha Trang

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

Công tác đãi ngộ, quản lý lao động tại bộ phận khách sạn Harbour View, Hải Phòng



        Bên cạnh những chính sách đãi ng thì tính kỷ luật trong lao động tại khách sạn cũng được thực hiện rất nghiêm túc và được đề cao. Mọi nhân viên đều phải chấp hành giờ giấc đi làm một cách chính xác. Nếu nhân viên đi muộn từ 5 phút trở lên nhiều lần liên tiếp sẽ bị phạt theo nhiều mức khác nhau. Nếu muộn 5 phút/1 lần/tháng thì sẽ bị nhắc nhở và trừ 8 điểm thi đua(trong tổng số 50 điểm). Nếu muộn trên 2 lần sẽ bị cảnh cáo miệng và trừ 13 điểm thi đua. Trên 3 lần đi muộn thì bị trừ hết điểm thi đua. Nếu nhân viên nào đi muộn trên 30 phút sẽ bị trừ thêm một nửa ngày lương. Việc theo dõi điểm thi đua do các bộ phận tự theo dõi và là cơ sở để bình chọn “nhân viên xuất sắc tháng”. Hình thức để bộ phận bảo vệ phát hiện và theo dõi nhân viên đi làm muộn là dựa trên bảng lịch làm việc tuần các bộ phận gửi về (có chú giải) và qua máy cà thẻ có ghi tên nhân viên do ngân hàng cấp (gọi là thẻ người lao động cũng là th lương) ở cổng sau. Khi nhân viên đến hay rời khách sạn đều phải thực hiện công việc báo cáo sự có mặt hay ra về và khai báo số tài sản mang theo tại bộ phận bảo vệ. Nếu không sẽ được coi là không đi làm và sẽ bị trừ lương. Điều này cho thấy sự khách quan trong công tác theo dõi giờ giấc và kỷ luật lao động. Phương pháp này cũng mang tính giáo dục và tính tích cực rất cao. Khi đã vào ca làm việc nhân viên phải mặc đồng phục theo đúng quy định của bộ phận, tóc tai phải gọn gàng. Đặc biệt trong quá trình làm việc nhân viên không được sử dụng điên thoại, trong ca làm việc nhân viên được nghỉ giữa giờ là 30 phút đối với ca sáng -chiều và 45 phút với ca đêm được tính vào giờ làm việc.


        Để động viên khen thưởng và khích lệ nhân viên nâng cao hiệu quả lao động và tinh thần trách nhiệm trong công việc, ban lãnh đạo khách sạn dã tổ chức bình chọn nhân viên xuất sắc nhất tháng, quý, năm với 6 tiêu chí bình xét danh hiệu nổi bật là: chất lượng, khối lượng công việc đạt được, sự chủ động sáng tạo trong công việc, tính tích cực và sự nhiệt tình lao động…Nhân viên dạt danh hiệu này sẽ được tuyên dương vào buổi tổng kết tháng, nếu đạt danh hiệu năm sẽ được tặng bằng khen cùng tiền thưởng.




Công tác đãi ngộ, quản lý lao động tại bộ phận khách sạn Harbour View, Hải Phòng

Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015

HẢI PHÒNG



        Vị trí địa lý của khách sạn là một trong các tiêu chí đánh giá và xếp hạng sao khách sạn. Vị trí khách sạn quyết định quan trọng đến khả năng thu hút khách và hội tiếp cận của khách. Chính vì vậy, vị trí khách sạn có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả kinh doanh của khách sạn.


        Khách sạn Harbour View - Hải Phòng tọa lạc tại số 4 Trần P - một trong những trục đường chính của thành phố Hải Phòng, chỉ cách sân bay quốc tế Nội Bài ( Hà Nội) 2h xe rất gần sân bay nội địa Cát Bi. Từ khách sạn, du khách chỉ mất 10 phút để đi đến bến Bính và lên tàu đi thăm quần đảo Cát Bà – một trong 20 điểm du lịch đặc biệt của nước ta, có nhiều phong cảnh và bãi tắm đẹp. Hơn nữa nơi đây có khu dự trữ sinh quyển thế giới với nhiều loài động thực vật quý hiếm…hay chỉ với 1h30 phút bằng ô tô du khách đã có thể đặt chân tới vịnh Hạ Long - một trong năm di sản thiên nhiên thế giới của Việt Nam. Gần hơn du khách có thể tham gia đạp xe ra vùng ngoại ô như: bãi biển Đồ Sơn hoặc du khảo đông quê Kiến Thụy, được nhiều du khách nước ngoài ưa chuộng. Du khách cũng có thể tản bộ dạo bước trên các con đường chính dọc theo đường Trần Phú để tham quan quán hoa, nhà hát lớn, đền nghè…Vì thế, rất nhiều du khách nước ngoài đã đến nghỉ tại khách sạn đều yêu thích và dành thời gian để đi tham quan và tham gia gián tiếp vào các sự kiện văn hóa diễn ra ở nhà hát thành phố nhân dịp các ngày lễ lớn như: giải phóng thành phố, 1/5, giải phóng Miền Nam…


        Và với vị trí ngay tại trung tâm thành phố Hải Phòng, là nơi có cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật tốt nhất Hải Phòng, Harbour View là nơi các doanh nghiệp lựa chọn để tổ chức các buổi tiệc chiêu đãi, các cuộc hội nghị, các buổi họp, các chương trình giới thiệu sản phẩm…


        Với vị trí địa lý thuận lợi kể trên hàng năm Harbour View đã đón được một số lượng khách du lịch rất lớn, trong đó chủ yếu là khách theo đoàn và khách thương gia, người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống và làm việc lâu dài.




HẢI PHÒNG

Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015

Xây dựng một nền văn hóa du lịch thân thiện, đậm đà bản sắc dân tộc



+ Về phía địa phương


Theo ông Vũ Thế Bình, Vụ trưởng Vụ Lữ hành (Tổng cục Du lịch) nhấn


mạnh: “Hơn 80% du khách sang Việt Nam đều lấy thông tin từ bạn bè và người thân. Việc tỏ thái độ thân thiện với số du khách nước ngoài đến Việt Nam chính là


cách thức quảng bá, tuyên truyền hiệu quả nhất để vận động họ quay trở lại cùng với bạn bè và người thân” . Để có một nền du lịch phát triển thì không chỉ nhờ sự cố gắng chính quyền hay doanh nghiệp mà còn nhờ sự góp sức của người dân.


Hơn bao giờ hết, sự phát triển của ngành du lịch cần có sự hỗ trợ của người dân trong việc tạo dựng hình ảnh một vùng đất thân thiện và đậm đà bản sắc dân tộc.


Nhằm giúp người dân dễ dàng nhận thức điều đó, người viết đưa ra giải pháp sau:


- Tuyên truyền, giáo dục ý thức du lịch của người dân bằng hình thức quảng bá nét đẹp và sự ích lợi của du lịch mang lại. Người viết đề xuất chương trình quảng bá mang tên “Một nụ cười cho một du khách”. Chương trình sẽ bao gồm những đoạn


phim quảng cáo xoay quanh chiến lược du lịch của tỉnh nhà, đồng thời chỉ ra những


ích lợi từ những nụ cười của người dân mang lại cho ngành du lịch. Bên cạnh đó, chương trình cũng thiết kế các băng rôn, phát tờ rơi đến những điểm kinh doanh dịch vụ du lịch và khu vực chung quanh. Nội dung chính của toàn bộ chương trình là thông điệp: cho dù bạn là ai là nhân viên hàng không hay người bán hàng nước, nhân viên khách sạn hay người đưa đò, nhân viên văn phòng hay nông dân làm vườn, hãy làm cho quê hương, mảnh đất Quảng Ngãi mình đẹp hơn bằng chính nụ cười của bạn. Hãy cười với những người khách thân yêu của chúng ta. Thông điệp sẽ giúp đưa người dân gần hơn với khách du lịch quốc tế và ngược lại họ sẽ cảm thấy thật gần, thật thương mảnh đất họ đi qua. Chương trình được dự tính kéo dài 1 tháng với chi phí tổng cộng 365,5 triệu VND, huy động 14 nhân công, 6000 truyền


đơn và 30 băng rôn.


+ Về doanh nghiệp


- Phối hợp cùng chính quyền trong các chiến dịch tuyên truyền thực hiện văn hóa một điểm đến thân thiện. Hơn nữa, chính thái độ nhân viên trong các cơ sở du lịch quyết định phần lớn ấn tượng của du khách. Vì vậy, doanh nghiệp cần khuyến khích nhân viên có những cử chỉ và thái độ thích hợp.




Xây dựng một nền văn hóa du lịch thân thiện, đậm đà bản sắc dân tộc

Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2015

Đến Phú Quốc đừng quên về Nam Đảo. Vì Sao?



- Khu Cội Nguồn: Nếu bảo tàng tư nhân này hay những gian hàng trưng bày ở đây không là mối quan tâm thì những chú chó săn Phú Quốc và những ngôi nhà truyền thống của người dân Phú Quốc được gìn giữ lại nơi đây chắc sẽ là một phần trong hành trình khám phá Đảo Ngọc của bạn.


- Khu nuôi cấy ngọc trai Nhật Bản: Tìm hiểu quy trình sản xuất ngọc trai, khách có thể mua những viên ngọc trai được nuôi cấy tại đảo để làm quà lưu niêm cho một chuyến đi. Nếu những viên ngọc trai đắt tiền nằm ngòai kế họach chi tiêu của bạn thì những sản phẩm ngọc trai rẻ tiền hơn (từ 50.000 Đ) chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của bạn bởi sự long lanh của chúng


- Di Tích Lịch Sử Lao Phú Quốc: Tìm hiểu tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ. Di tích này vừa được tôn tạo để khách du lich khi đến Phú Quốc có thể hình dung được sự tra tấn và giết chóc dã man của Mỹ – Ngụy


- Bãi Sao: Đắm mình cùng làn nước trong mát của biển xanh và cát trắng. Bãi Sao đựơc xem là bãi biển đẹp nhất đối với người dân Phú Quốc. Những hạt cát trắng mịn đã khiến không ít người phải cất giữ lại cho một lần ghé qua nơi này. Ở đây, có một nhà hàng cho khách để xe và tắm tráng miễn phí nhưng đồ ăn thì khá đắt đỏ.


- Ra khơi tham quan khu làng chài ven biển, mua và thưởng thức món gỏi cá trích đặc sản của ngư dân bãi Khem, câu cá trên tàu tại Mũi Ông Đội và hòn Dăm, tham quan di tích Giếng Ngự (hay còn gọi là Giếng Tiên), tìm hiểu dấu tích vua Gia Long khi trốn chạy quân Tây Sơn và sau đó tự do tắm biển và khám phá nét hoang sơ của bãi cát trắng…


- Suối Tranh: Khám phá sinh thái khu bảo tồn rừng nguyên sinh và tận hưởng làn nước trong mát bắt nguồn từ dãy núi Hàm Ninh (vào mùa mưa)




Đến Phú Quốc đừng quên về Nam Đảo. Vì Sao?

Thứ Năm, 14 tháng 5, 2015

Điều kiện kinh tế - xã hội và tài nguyên du lịch tỉnh Quảng Ngãi



Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội tính trên đầu


người của Quảng Ngãi tăng mạnh nhờ vào nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhìn chung cao hơn so với mức bình quân của cả nước và các tỉnh trong khu vực. Chỉ tiêu tăng trưởng GDP 2010 của Quảng Ngãi đạt 14,9% so với năm trước. Năm 2010, Quảng


Ngãi xếp vị trí thứ 7 trong top 10 tỉnh nộp ngân sách cao nhất cả nước.


Mặc dù có những bước phát triển kinh tế nhất định, song nói chung mức sống dân cư còn thấp. Đặc biệt là trong những vùng thường xuyên gặp thiên tai và những vùng núi xa xôi.


Về điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật cũng có nhiều tiến bộ.


một trong các chỉ tiêu cho thấy sự phát triển chính là chỉ số gia tăng của các bưu


điện cơ sở. Đến nay, 100% các huyện thị đều đã được trang bị tổng đài điện thoại.


Tài nguyên du lịch nhân văn là những giá trị văn hóa vật chất cũng như tinh


thần do bàn tay và khối óc của người dân Quảng Ngãi sáng tạo ra trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Các tài nguyên này bao gồm những di tích lịch sử văn hóa,


kiến trúc nghệ thuật, những sản phẩm thủ công và các nghề thủ công truyền thống,


những giá trị văn hóa phi vật thể như văn nghệ dân gian, lễ hội, ẩm thực¼đều là


những nguồn tài nguyên quan trọng cần được nghiên cứu để tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo mang bản sắc riêng của Quảng Ngãi nhằm thu hút khách du lịch,


đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Tài nguyên du lịch nhân văn Quảng Ngãi bao


gồm:




Điều kiện kinh tế - xã hội và tài nguyên du lịch tỉnh Quảng Ngãi

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ tiệc tại khách sạn Sông Nhuệ, Hà Tây



Đứng trước thực trạng kinh doanh hiện nay, khách sạn Sông Nhuệ cũng có những thuận lợi và khó khăn cùng tồn tại. Để đáp ứng điều kiện kinh doanh trong điều kiện mới thì khách sạn phải từng bước giải quyết những khó khăn còn tồn tại và nâng cao chất lượng dịch vụ để kinh doanh có hiệu quả hơn.


Sau một thời gian thực tập và nghiên cứu về vấn đề chất lượng dịch vụ tiệc tại khách sạn Sông Nhuệ, em có đưa ra một số giải pháp nhằm cải tiến chất lượng dịch vụ tiệc tại khách sạn như sau:


Về cơ sở vật chất, trang thiết bị của bộ phận tiệc:


Hiện nay chất lượng trang thiết bị của bộ phận tiệc tại khách sạn Sông Nhuệ chưa được đồng bộ. Để nâng cao chất lượng trang thiết bị này cần phải có một nguồn kinh phí lớn. Song đó là việc làm cần phải đầu tư để tạo ấn tượng tốt cho khách, nâng cao uy tín về chất lượng phục vụ của khách sạn.


- Khách sạn cần phải thay thế một số bàn ghế cũ đã hết khấu hao, kém chất lượng.


Bên cạnh đó các khăn chải bàn có một số bị thủng, bị hoen ố. Bát đĩa bị sứt mẻ cần phải được loại bỏ không dùng trong các buổi tiệc bởi nó sẽ ảnh hưởng tới chất lượng của bữa tiệc.


Các đèn chiếu sáng ở phòng tiệc có một số đã bị hỏng cần phải được bổ sung thay thế kịp thời.


Hiện nay khách sạn chưa có hệ thống nước nóng để rửa bát và tráng bát do vậy cần phải có hệ thống nước nóng để rửa bắt đĩa và các dụng cụ ăn uống cho hợp vệ sinh, thẩm mỹ.


Bộ phân bar cần bổ sung thêm ly, cốc để phù hợp với mỗi loại đồ uống.


Bộ phận bếp còn thiếu thiết bị bảo quản thực phẩm và một số máy móc chế biến sản phẩm ăn uống. Vì vậy, khách sạn phải đầu tư mua sắm trang thiết bị trên để nâng cao chất lượng đồ ăn tốt hơn.


Để nâng cao chất lượng dịch vụ thì khách sạn phải thường xuyên tăng cường cải tạo thay thế các trang thiết bị đã lỗi thời bằng các trang thiết bị phù hợp với xu thế. Việc này phải căn cứ vào đề xuất của từng bộ phận và chủ trương của ban quản trị đưa ra.


 




Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ tiệc tại khách sạn Sông Nhuệ, Hà Tây

Nhược điểm trong qua trình tổ chức tại khách sạn du lịch – điểm xấu trong lòng du khách



Tuy khâu tổ chức được tổ chức tương đối tốt nhưng vẫn có những thiếu sót trong tổ chức công việc, phân công công việc. Điều này gây cho khách hàng sự không hài lòng vì những thiếu sót trong quá trình phục vụ. Do đặc điểm của sản phẩm dịch vụ khác với sản phẩm hàng hóa hữu hình là ở tính vô hình nên việc kiểm tra chất lượng sản phẩm là rất khó khăn. Chỉ với một sai sót nhỏ trong tổ chức cũng rất có thể dẫn đến sai hỏng. Cho nên yếu tố con người trong dịch vụ là rất quan trọng.


Nguyên nhân: Để xét đến nguyên nhân thì có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan ảnh hưởng, tác động đến chất lượng dịch vụ. Những nguyên nhân khách quan mang lại thì chúng ta không thể kiểm soát được mà có thể tránh và tìm cách giảm bớt rủi ro. Còn những nguyên nhân chủ quan là do con người chúng ta cố gắng làm tốt những công đoạn để tránh những sai hỏng đáng tiếc.


Nguyên nhân khách quan:


+ Trong thời gian vừa qua tình hình kinh doanh khách sạn nói chung gặp rất nhiều khó khăn. Lượng khách hàng tăng không đều, các khách sạn mọc lên như nấm dẫn đến việc có chỗ thừa và có chỗ thiếu do quy hoạch không đồng bộ. Sự cạnh tranh giữa các khách sạn ngày càng gay gắt dẫn đến việc giá cả tụt xuống gây khó khăn cho nhiều khách sạn.


Từ sự cạnh tranh về giá cả giữa các doanh nghiệp cho nên có thể chất lượng dịch vụ sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp. Để hạ giá, các khách sạn có thể cắt giảm chi phí dẫn đến chất lượng dịch vụ tiệc có thể bị giảm sút gây nên hậu quả là không thoả mãn được các trông đợi của khách hàng.


+ Công tác bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực vĩ mô chưa thực sự được tốt. Theo thông kê của ngành thì có 7,5% lao động trong ngành khách sạn có trình độ đại học. 78% được đào tạo qua các trường nghiệp vụ du lịch hoặc được đào tạo tại chỗ. 14,5%% lao động trực tiếp trong ngành khách sạn chưa hề được đào tạo. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng lao động của doanh nghiệp và cả ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dịch vụ của khách sạn vì đội ngũ lao động không được đào tạo thiếu những kỹ năng cần thiết để phục vụ khách hàng dẫn đến dễ bị sai hỏng đáng tiếc.




Nhược điểm trong qua trình tổ chức tại khách sạn du lịch – điểm xấu trong lòng du khách

Cải tiến lại các phương pháp quản lý hành chính và bài toán du lịch



Đây là yêu cầu muon thuở đối với quản lý hànhchính chủa Việt Nam từ nhiều năm qua. Mặc dù nhà nước ta đã đặt ra qui định quản lý một cửa để thuận lợi cho người dân song nó lại phát sinh ra vấn đề “ 1 cửa và rất nhiều chìa khoá”. Lấy ví dụ trong việc cấp VISSA: “ Khách nước ngoài khi vào Việt Nam phải mất 5-7 ngày để chờ đợi lấy VISA, các chi phí cho làm VISA thường là 25USD song để lấy được VISA các phụ phí phát sinh từ hai đầu cho những dịch vụ lòng vòng khó kiểm soát có thể lên tới vài trăm USD” (Trích từ tuần du lịch số tết Kỹ Mão 1999).


Sự phát sinh các phụ phí, kéo dài thời gian lấy VISA đã làm khách du lịch nản lòng khi đến Việt Nam, đã có những đoàn khách quốc tế khi tới sát biên giới Việt Nam song họ đành phải sang du lịch tại quốc gia thứ 2 vì qua mất thời gian cho chuyển thủ tục.


Một điều cần quan tâm nữa trong công tác hành chính đó là công tác quản lý giá cả. Việc đặt ra các chi phí lệ phí một cách tuỳ tiện của một số đơn vị quản lý du lịch cũng tác động không nhỏ tới tâm lý khách du lịch tại Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam chế độ 2 giá vẫn như là đang được sử dụng như là một giải pháp đối với các nhà quản lý dịch vụ du lịch. Đơn cử mọt dẫn chứng, tại khu di tích lịch sử Văn Miếu Quốc Tử Giám về tham quan đối với người Việt Nam là 1.000đồng trong khi phí đối với khách nước ngoài là 12.000đ… Không chỉ rieng tại khu di tích Văn Miếu mới có hiện tượng này mà ở hầu hết các khu du lịch đều có hiện tượng 2 giá. Điều đáng quan tâm ở đây không phải chỉ là vấn đề gây khó chị cho khách mà còn gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý. Trong khi nhà nước Việt Nam thắt chặt công tác quản lý ngoại tệ tại các doanh nghiệp thì họ lại thả lỏng việc quản lý ngoại tệ tại các nơi này. Việc chuyển đổi ngoại tệ tại cácnơi này diễn ra một cách tự do, Khách du lịch có thể thanh toán bằng đồng đô la (USD). Tại quốc gia khác việc quy định các mức giá chỉ được yết bằng đồng bản tệ, vì thế khách không thể sử dụng đồng ngoại tệ để thanh toán mà phải ra các ngân hàng qui đổi chi tiêu. Có như vậy việc quản lý ngoại tệ cũng dễ dàng và khách hàng cũng nhanh chóng trong việc thanh toán.




Cải tiến lại các phương pháp quản lý hành chính và bài toán du lịch

Điều kiện kinh doanh của phòng Du lịch quốc tế



Đây là tất cả những yếu tố về cơ sở vật chất, công nhân mà bộ phận du lịch quốc tế có thể sử dụng để phục vụ hoạt động kinh doanh.


* Điều kiện về cơ sở vật chất:


Tiền thân của bộ phận này là phòng du lịch thuộc Bna Bảo hiểm xã hội của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Trước đây, phòng hoạt động tại trụ sở số 65 phố Quán Sứ nhưng hiện nay đã chuyển đến 1B Yết Kiêu. Mặc dù so với cơ sở trước đây, cơ sở mới có điều kiện thuận lợi hơn song hoạt động của phòng vẫn gặp không ít những khó khăn.


Ban đầu khi thành lập, phòng được Tổng Liên đoàn được Việt Nam cấp vốn tổng công 132,3 triệu đồng (trong đó bằng hiện vật 47 triệu bằng tiền mặt 50 triệu). Tổng cộng cả nguồn được cấp và cho vay, vốn kinh doanh của bộ phận du lịch quốc tế là 229,3 triệu đồng.


Như vậy xét về điều kiện cơ sở vật chất, so với các đơn vị kinh doanh du lịch quốc tế khác bộ phận du lịch quốc tế gặp phải khá nhiều khó khăn nhất là trong điều kiện kinh doanh mới, mức độ cạnh tranh của thị trường ngày càng gay gắt.


Tuy nhiên, với nỗ lực của cả tập thể cán bộ lãnh đạo và đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ tốt hơn trong công việc kinh doanh cụ thể là:


Chỉ sau 3 năm (từ 1989 – 1992) bộ phận du lịch quốc tế đã trong bị được một đội xe 4 chiếc của Nhật (gồm 1 xe 52 chỗ, 2 xe 12 chỗ, 1 xe 4 chỗ) để chuyển sang phục vụ nhu cầu của khách du lịch nội địa, với chức năng kinh doanh chủ yếu là vận chuyển.


Về cơ bản, đến nay đã giải phóng xong khu đất ở 1B Yết Kiêu, thực hiệ đền bù thoả đáng cho một số hộ dân, xây dựng mới một dãy nhà 1 tầng để tiếp khách và làm việc.


Công ty đang tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng một khách sạn 4 sao bằng vốn tự có và vốn vay Ngân hàng, dự kiến đưa vào sử dụng vào cuối năm 1999. Đây là điều kiện để phòng du lịch quốc tế sẽ không chỉ kinh doanh lữ hành mà còn mở rộng sang hoạt động lưu trú, đáp ứng nhu cầu nội bộ của Công ty cũng như khách du lịch có yêu cầu.




Điều kiện kinh doanh của phòng Du lịch quốc tế

Kinh nghiệm phát triển hoạt động du lịch quốc tế cua một số nước trên thế giới.



 


Đặc điểm thị trường du lịch quốc tế.


Thị trường du lịch là một bộ phận cấu thành đặc biệt của thị trường hàng hoá bao gồm toàn bộ những mối quan hệ và cơ chế kinh tế có liên quan tới thì gian, điều kiện và phạm vi thực hiện dịch vụ và đáp ứng các nhu cầu xã hội về du lịch.


Nói đến thị trường du lịch quốc tế là nói đến sản xuất trao đổi sản phẩm, dịch vụ du lịch, là đối thoại giữa người sản xuất và người tiêu dùng trong đó người tiêu dùng được thoả mãn nhu caàu của mình về các sản phẩm hay dịch vụ du lịch, còn người sản xuất thông qua tiếp xúc với khách hàng mà định hướng hoạt động kinh doanh của mình sao cho thu được hiệu quả kinh tế tối đa. Nói một cách chi tiết và đầy đủ hơn thì thị trường du lịch quốc tế là lĩnh vực cụ thể trong lưu thông hàng hoá, dịch vụ du lịch, là tổng hợp các điều kiện thực hiện các sản phẩm hàng hoá đó về kinh tế (gồm các yếu tố nhờ cung cấp giá cả…) kỹ thuật và tâm lý xã hội. Mỗi yếu tố đều có vai trò nhất định trong việc cấu thành thị trường du lịch. Thị trường du lịch quốc tế mang tính độc lập tương đối so với thị trường hàng hoá nói chung vì nó thực hiện dịch vụ hàng hoá của ngành du lịch.


Do sản phẩm của du lịch quốc tế không thể vận chuyển từ nơi này đến nới khác nên trên thị trường không có sự chuyển dịch của hàng hoá khách du lịch muốn tiêu dùng sản phẩm du lịch phải tới nơi có sản phẩm, một số hàng hoá cảu tiêu dùng và sẩn xuất chúng diễn ra đồng thời tại một địa điểm.


Thị trường du lịch quốc tế cũng như các thị trường hàng hoá thông thường đều chịu sự chi phối của cácqui luật kinh tế như qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật giá cả, nhưng do có những đặc điểm riêng biệt nên thị trường du lịch xuất hiện muộn hơn so với các thị trường hàng hoá khác. Thị trường du lịch là tập hợp của cung, cầu về sản phẩm du lịch (trong đó chủ yếu là dịch vụ) và các mối quan hệ để xác định giá cả giữa chúng.




Kinh nghiệm phát triển hoạt động du lịch quốc tế cua một số nước trên thế giới.

Chính sách phát triển du lịch Huế: nhất quyến hay phân tán?



o Chính sách phát triển du lịch: Một chính sách thống nhất hay uyển chuyển không khẳng định được là ảnh hưởng tốt hay không tốt đến sự phát triển du lịch. Tuy nhiên, trong mỗi hoàn cảnh kinh tế, chính trị xã hội khác nhau mới khẳng định được điều đó và khi đó chính sách phát triển du lịch đưa ra và vận hành một cách linh hoạt theo thời thế thì sẽ đưa ngành du lịch đi vào quỹ đạo phát triển rất thuận lợi.


o Môi trường pháp lý và thủ tục hành chính: Nếu xét đến yếu tố thu hút đầu tư để phát triển du lịch thì môi trường pháp lý và các thủ tục hành chính là cửa ngõ đầu tiên để khuyến khích hay hạn chế tinh thần của nhà đầu tư. Chính sách thông thoáng, cơ chế một cửa là một lợi thế lớn để kêu gọi các


nhà đầu tư, ngược tại, tính nhiêu khê trong thủ tục sẽ làm nhà đầu tư lo ngại


Cơ sở vật chất kỹ thuật:


Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương tiện được huy động tham gia vào việc khai thác các tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và thực hiện các dịch vụ và hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của du khách trong chuyến hành trình của họ. Như vậy, Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cả cơ sở vật chất kỹ thuật của bản thân ngành du lịch và của ngành khác như: hệ thống đường sá, cầu cống, bưu chính viễn thông, điện nước.


Cơ sở vật chất kỹ thuật là một trong những nhân tố quang trọng đối với quá trình phát triển kinh doanh. Nó là yếu tố đảm bảo về điều kiện cho họat động sản xuất kinh doanh được thực hiện. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực sản xuất kinh doanh để có thể hoạt động đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng. Ngành du lịch cũng không nằm ngoài quy luật đó.




Chính sách phát triển du lịch Huế: nhất quyến hay phân tán?

Phát triển nguồn nhân lực cho phát triển du lịch ở Quảng Nam



Dựa trên thực trạng nguồn nhân lực biển đảo đang còn yếu về chuyên môn và ít về số lượng. Vì vậy, tăng cường đào tạo trình độ đại học về du lịch. Khuyến khích các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh mở các khoa du lịch nhằm tạo nguồn nhân lực du lịch có chuyên môn nghiệp vụ am hiểu và làm việc chính tại mảnh đất quê hương mình.


Tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý về du lịch ở các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương. Hàng năm mở các lớp bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại cán bộ về nghiệp vụ quản lý du lịch cho cán bộ quản lý ngành du lịch trên địa bàn tỉnh.


Mở các lớp tập huấn cho cộng đồng cư dân địa phương về cách làm du lịch để người dân làm du lịch có văn hóa và mang lại hiệu quả kinh tế xóa đói giảm nghèo.


Đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội là công việc được đặc biệt coi trọng. Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng về bảo vệ an ninh, quốc phòng với các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Hướng dẫn công ty kinh doanh lữ hành trong việc xây dựng các tour du lịch phải đảm bảo an ninh, quốc phòng an toàn xã hội, đặc biệt là là các vùng nhạy cảm về an ninh, an toàn quốc gia; hướng dẫn khách du lịch tôn trong pháp luật Việt Nam, phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Việt Nam; quan tâm đến yêu cầu đảm bảo an ninh, quốc phòng trong việc quy hoạch và đầu tư phát triển các khu, tuyến điểm du lịch, các dự án đầu tư về du lịch        Qua nghiên cứu cơ sở thực tiễn đề tài đã tìm hiểu rõ về tình hình phát triển du lịch biển đảo trên thế giới và Việt Nam, thông qua thực tiễn đó lột tả được tầm quan trọng của du lịch biển đảo đối với phát triển du lịch của mỗi quốc gia trên thế giới đồng thời du lịch biển đảo đã mang lại lợi ích kinh tế, đa dạng hóa các loại hình du lịch, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất hạ tầng… Không chỉ vậy, du lịch biển đảo còn có ảnh hưởng tích cực tới xã hội như nâng cao đời sống nhân dân giúp xóa đói giảm nghèo, đảm bảo môi trường phát triển bền vững…




Phát triển nguồn nhân lực cho phát triển du lịch ở Quảng Nam

Du lịch sinh thái - Kết quả hoạt động du lịch biển, đảo tỉnh Nghệ An giai đoạn 2002-2009



 


Rừng Bần là điểm du lịch sinh thái, giải trí lý tưởng. Cách Thành phố Vinh khoảng 8km về phía đông bắc có một khu rừng ngập mặn dân địa phương gọi là Rừng Bần. Rừng Bần có diện tích hơn 70ha (tính diện tích có cây mọc).


Rừng bần dần trở thành một điểm du lịch sinh thái mới đang thu hút ngày càng nhiều du khách tới thăm. Các công ty lữ hành trong tỉnh hiện đang xây dựng tour du lịch tham quan khám phá rừng ngập mặn với nhiều hoạt động du lịch như bơi thuyền trên sông, câu cá, cắm trại… và thưởng thức các đặc sản địa phương.


Lễ hội Ông Hoàng Mười, Đền Ông Hoàng Mười, thờ Đạo mẫu Tứ phú, vị thần được thờ chính là ông Hoàng Mười – một trong hàng các ông Hoàng. Ban quản lý Đền đã lắp đặt đường ống, kéo nước máy từ trên Trung tâm xã Hưng Thịnh về với hệ thống đường ống dài 1,5 km, đã đảm bảo nước sạch phục vụ ăn uống cho du khách, cùng với sự đóng góp của du khách, sự chú trọng đầu tư của tỉnh, đền mới được khôi phục và tổ chức lại các lễ hội từ năm 1995


Hàng năm du khách đến với đền rất đông. Ngày thường đã đông, vào mùa lễ hội tháng chín, tháng mười tới, du khách đến càng đông nữa, Cùng với sự thuận lợi về đường giao thông, về cảnh quan… ban quản lý đang cố gắng hết sức mình để đón tiếp và phục vụ thoả mãn nhu cầu Văn hóa Tâm linh của du khách. Di tích lịch sử Văn hóa Tâm linh Đền Ông Hoàng Mười đang là địa chỉ thu hút du khách khi đến với Nghệ An, đến với Hưng Nguyên lịch sử và cách mạng đang từng bước đổi thay, ngày càng giàu đẹp.




Du lịch sinh thái - Kết quả hoạt động du lịch biển, đảo tỉnh Nghệ An giai đoạn 2002-2009

Những hạn chế trong quá trình phát triển du lịch sinh thái tại VQG Núi Chúa



Cơ sở hạ tầng: Trong thời gian qua nơi đây chưa có sự quan tâm đầu tư về CSHT phục vụ du lịch nên các nguồn tài nguyên trên vẫn còn ở dạng tiềm năng, một số nơi các tài nguyên du lịch bị xâm phạm, sử dụng cho mục đích khác như phá rừng làm rẫy. Hiện nay toàn khu vực thì các cơ sở lưu trú rất ít, các dịch vụ đưa khách đi tham quan biển, đảo hầu hết đều do ngư dân thực hiện. Nhìn chung các dịch vụ du lịch ở đây còn đơn điệu. Các loại hình du lịch ở đây chủ yếu là: tắm biển, lặn biển, câu cá, cắm trại, leo núi, du thuyền thăm quan biển đảo.


Đội ngũ cán bộ phục vụ cho du lịch: Do mới ở giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển, lực lượng lao động làm du lịch tại vườn quốc gia Núi Chúa nói chung còn mỏng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển du lịch hiện nay. Như vậy cần có kế hoạch phát triển lao động cho hoạt động du lịch của vùng trong thời gian tới. Hơn nữa hiện tại VQG chưa có hướng dẫn viên phục vụ cho nhu cầu du lịch mà chỉ có những tình nguyện viên thiếu chuyên nghiệp, đây là một thiếu sót cần được khắc phục kịp thời và hợp lý.


Hoạt động đầu tư cho du lịch: Đầu tư là đòn bẩy thúc đấy các ngành kinh tế nói chung và phát triển du lịch sinh thái nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay, công tác đầu tư cho phát triển du lịch của khu vực chưa được quan tâm tạo điều kiện, nên còn gặp nhiều khó khăn, một số dự án được soạn thảo nhưng phần lớn là những dự án treo. Vấn đề này cần được quan tâm hơn nữa để hoạt động du lịch tại đây xứng đáng với tiềm năng, góp phần nâng cao vị trí của du lịch tỉnh Ninh Thuận.


Thực tế nhu cầu đầu tư du lịch cho cụm du lịch VQG Núi Chúa và ngành du lịch cả tỉnh Ninh Thuận là rất lớn. Tuy nhiên trong thời gian qua tình hình đầu tư du lịch trong đây còn gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn cho phát triển còn hạn hẹp.


Chính những vấn để còn hạn chế nói trên đã dẫn hoạt động DLST tại VQG Núi Chúa chưa thức sự hiệu quả. Sự không hiệu quả này được thể hiện qua các mặt:


        - Khách du lịch: Do công tác thu thập số liệu về khách toàn bộ VQG chưa thực hiện được, nên bài nghiên cứu chỉ có được số liệu về lượng khách của vịnh Vĩnh Hy là 32.439 người (2007). Nếu các hạn chế nêu trên được khắc phục thì số lượng khách tới tham quan sẽ tăng lên rất nhiều.


- Doanh thu từ du lịch: Bao gồm tất cả các khoản thu do khách du lịch chi trả, đó là doanh thu từ lưu trú và ăn uống; từ vận chuyển khách du lịch; và từ các dịch vụ khác. Ngoài ra một số ngành khác thu hút từ du lịch như: ngân hàng, bưu điện, văn hóa, giao thông, v.v. Do các cơ sở lưu trú rất ít đã dẫn đến mức độ chi tiêu của khách du lịch tại tỉnh Ninh Thuận và VQG Núi Chúa nhìn chung còn ở mức thấp, mức chi tiêu tại tỉnh chỉ bằng 50 – 60 % so với các tỉnh thành có du lịch phát triển (Khánh Hòa, Lâm Đồng, Quảng Ninh, Hà Nội), năm 2000, một ngày trung bình mỗi khách du lịch nội địa chi tiêu khoảng 150.000 VNĐ (tương đương 10 USD) và trên dưới 45 USD đối với khách du lịch quốc tế.


 


 


 




Những hạn chế trong quá trình phát triển du lịch sinh thái tại VQG Núi Chúa