Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Khác biệt về cách thức truyền thông giữa du lịch trăng mật và du lịch bình thường


Thiết kế nội dung riêng cho tour du lịch trăng mật trên website www.vptour.com.vn nhằm thể hiện sự đầu tư cho tour du lịch trăng mật. Tạo ấn tượng về sản phẩm du lịch trăng mật là sản phẩm nổi bật của VPTOUR.


Truyền thông về tour thông qua các dịch vụ có liên quan đến việc tổ chức đám cưới, liên kết với các studio ảnh cưới, dịch vụ ăn hỏi, nhà hàng … Đây là một trong những cách thức quan trọng để hoạt động Marketing có thể tạo hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Các công ty dịch vụ cưới hỏi chính là nguồn cung cấp thông tin khách hàng một cách chính xác, đầy đủ và nhanh chóng nhất.


Đối với nội dung này, yêu cầu lập danh sách các đối tác liên quan, tạo mối quan hệ thường xuyên và hợp tác. Tìm kiếm thu thập nguồn thông tin về khách hàng bằng nhiều hình thức, liên kết với các đối tác này để thực hiện hoạt động quảng cáo…


Giới thiệu tour tới tận tay khách hàng mục tiêu bằng các hoạt động như đưa các catalogue giới thiệu tour tới các văn phòng, giới thiệu tại các tour đưa khách đi du lịch của công ty, quảng cáo tới các công ty đối tác …


Giao nhiệm vụ cho một tư vấn viên chuyên trách trực và trả lời các thắc mắc của khách hàng về tour trăng mật.


Hoạt động Marketing liên quan đến truyền thông hình ảnh đến với khách hàng đặc biệt quan trọng để khách hàng có thể có ấn tượng ban đầu về dịch vụ của VPTOUR. Trong tình hình có nhiều đối thủ cạnh tranh thì truyền thông càng giữ vai trò quan trọng để tạo ra sự khác biệt.


Thiết kế và tổ chức tour luôn là công việc quan trọng nhất của một công ty lữ hành, không chỉ riêng VPTOUR. Tour du lịch trăng mật hiện nay đang được tổ chức như tour du lịch ngắm cảnh thông thường. Điều này khiến cho khách hàng cảm thấy nhàm chán vì họ không tìm thấy sự đặc sắc và yếu tố đặc trưng của một tour du lịch trăng mật.




Khác biệt về cách thức truyền thông giữa du lịch trăng mật và du lịch bình thường

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

PHÂN ĐOẠN THỊ TRƯỜNG CHO TOUR DU LỊCH TRĂNG MẬT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI


Quyết định mở rộng thủ đô Hà Nội chính thức có hiệu lực từ ngày 01/08/2008, đến nay đã được hơn hai năm. Địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội được mở rộng trên cơ sở hợp nhất toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số tỉnh Hà Tây; điều chỉnh toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn (Hòa Bình).


Theo đó hiện nay, Thủ đô Hà Nội mở rộng có diện tích 3344,6 km2; có 29 đơn vị hành chính quận, huyện; 575 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn; phía Đông giáp các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, phía Tây giáp các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, phía Bắc giáp các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc. Theo số liệu tổng điều tra dân số 2009, tới ngày 01/04/2009, dân số Hà Nội là 6472,2 nghìn người, mật độ dân số 1935 người/km2. Thu nhập bình quân đầu người năm 2009 đạt 32 triệu đồng/người/năm. (Nguồn Tổng cục thống kê, niên giám thống kê 2009).


Với các số liệu như trên, Hà Nội là một trong những thị trường có lượng tiêu thụ hàng hóa lớn và là thị trường hấp dẫn đối với bất kì ngành nghề nào. Trong đó, sự phát triển và chất lượng đờisống cao của Hà Nội còn là cơ sở để khai thác ngành du lịch trong đó có du lịch trăng mật, sản phẩm du lịch mà VPTOUR đang phát triển.


Một loại tour du lịch đồng nhất không thể thỏa mãn nhu cầu của tất cả khách hàng, cụ thể là đối với tour trăng mật thì các nhóm khách hàng khác nhau cũng có những mong muốn khác nhau về địa điểm, cách thức, phương tiện, thời gian cũng như chi phí mà họ phải bỏ ra. Vì vậy phân đoạn thị trường là hết sức cần thiết.


Mục tiêu của việc phân đoạn thị trường này là chia khách hàng sử dụng dịch vụ tour du lịch trăng mật thành các nhóm dựa trên nhu cầu, động cơ thúc đẩy việc sử dụng sản phẩm tour du lịch trăng mật và tâm lý khách hàng nhằm 4 mục tiêu sau: Sử dụng hiệu quả hơn nguồn ngân quỹ dành cho marketing, hiểu biết thấu đáo hơn về nhu cầu của từng nhóm khách hàng, xác định vị thế một cách hợp lý hiệu quả và nâng cao độ chính xác trong việc đưa ra chiến lược marketing cụ thể đối với từng nhóm khách hàng.


Thị trường chính của VPTOUR là thị trường Hà Nội do đó việc phân đoạn thị trường được tập trung vào nhóm khách hàng trên địa bàn Hà Nội, trong đó dựa theo các tiêu thức chủ yếu gồm: phân đoạn theo đặc điểm dân số – xã hội, theo tâm lý và theo hành vi thái độ của khách hàng.




PHÂN ĐOẠN THỊ TRƯỜNG CHO TOUR DU LỊCH TRĂNG MẬT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

Tour trăng mật Hà Nội (Sài Gòn) - Đà Lạt


Đà Lạt – thành phố ngàn hoa đã từ lâu là một điểm đến hết sức hấp dẩn của các đôi uyên ương trong ngày trăng mật. Khí hậu mát mẻ cùng với những rừng thông xanh rì rào quanh năm, Đà Lạt còn lưu giữ rất nhiều ảnh hưởng của kiến trúc Pháp khiến bạn có cảm giác như đang ở một thành phố châu Âu nào đó trong tuần trăng mật của mình. Kỳ nghỉ của bạn tại thành phố tình yêu sẽ còn tuyệt vời và ý nghĩa hơn nữa khi hai bạn cùng chia sẻ những thời gian ngọt ngào bên nhau tại Evasion Ana Mandara Villa Dalat, khu biệt thự nguyên bản của Pháp hết sức sang trọng mới được phục chế và quản lý bởi tập đoàn Six Senses Spa nổi tiếng.


Tour trăng mật bạn tự thiết kế – Do it yourself honeymoon


Sự kết hợp hoàn hảo những ý tưởng, những mong muốn của hai bạn trẻ với VPTOUR sẽ cùng nhau thiết kế một chuyến du lịch trăng mật thật hoàn hảo, lãng mạn và phù hợp với ngân sách và phong cách của các bạn trẻ.


Với những thắng cảnh Việt Nam cùng với nhu cầu Du lịch VPTOUR xây dựng các chương trình đáp ứng mọi yêu cầu của các đôi. Tùy vào khả năng chi trả của từng khách để có thể thiết kế những chương trình khác nhau sao cho phù hợp nhất với khách.Thành công Marketing dựa vào cả những nhân tố chiến lược marketing và những nhân tố môi trường marketing. Những nhân tố này tạo nên môi trường marketing trong lĩnh vực du lịch.




Tour trăng mật Hà Nội (Sài Gòn) - Đà Lạt

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

Xúc tác du lịch – đâu chỉ để thu hút khách du lịch


  • Hoạtđộngđógiúpcho khách cónhiềuslựachọnhơn cho sảnphẩmtiêu dùngcủamìnhđồngthờicũngtạora môi trườngcạnhtranh lànhmạnhđnâng cao chấtlượngsảnphm du lịchvàgiúpdoanh nghiệpđịnhgiávừaphải.Ngoàira, hoạtđộngxúctiếncòngópphầntạora mộtdiễnđànmàquađócácdoanh nghiệpcạnhtranh bìnhđng vớinhau vsn phẩmdịchvdu lịchcủahvớimụcđíchlàthuyếtphụccông chúngtiêu dùngsảnphẩmcủamình.

  • Mộthoạtđộngxúctiến trung thựcthhiệnstôn trọngvớikháchhàngstạođiềukiệncho sảnphẩmdu lịchđượctiêu thnhiềulần, hay làmtăng thêm lượngkháchhàngquen thuộcđếnvớicông ty.

  • Hoạtđộngxúctiếncòncóthcoi làmộtcông chữuhiệuđđm bảolượngkhách hàng hiệntạicủacáccông ty lhànhvàcóthgiúpcáccông ty thu hútthêm lượngkhách mới, chiếmlòng tin củakháchhàng, kịchthích tiêu th, lưu thông phân phối, khẳngđnhđượcvthếcủadoanh nghiệp.

  • Xúc tác du lịch còn để giữ chân khách du lịch đến với công ty, đến với những địa điểm du lịch mặc dù họ đã tham quan qua.

Các công cụ cơbản trong xúc tiến hỗn hợp trong du lịch:


  • Quảng cáo: làmộtnghthuậtgiớithiệuhànghóahay dịchvnhằmtớinhữngthtrường mụctiêu nhấtđịnhđượcthc hiệnthông qua cácphương tiệntruyềnthông vàphảitrtiền. Tùyvàomụcđíchgâyấntượngcủamỗinhàkinh doanh lhành vớikhách màhxácđịnhcho mìnhnhữngcách thứcquảng cáokhácnhau: quảngcáosảnphẩmưu thếduy nhất,ưu thếvmặttìnhcảmhay quảngcáovlốisống, vcách sống.Mộtsphương tin quảng cáohayđượccácnhàkinh doanh lhànhápdụnglà: báo, tạpchí, truyềnhình, truyềnthanh, quảngcáongoàitrời, báođiệnt, ngoài ra doanh nghiệpcòncóthsdụngcataloge, thư, brocher, trin lãm, hộich,…Tùyvàomc tiêu quảng cáo phùhợpvớiđốitượngkhách hàng màdoanh nghiệphướngtới, tínhchấtđặcđiểmcủasảnphẩmcũngnhưngân sách dànhcho chương trìnhquảng cáo màcácdoanh nghiệpcóthlựachọncho mìnhphương tiệnquảng cáothíchhợp.

  • Xúctiếnbánhàng: làhìnhthứckhuyếnmạitrao giảithưởngtrong mộtthờigian nhấtđịnhđkhuyếnkhích khách hàngđang sdụngsảnphẩmdo doanh nghiệpcungứngmua nhiềuhơn vslượngvàsdụngthườngxuyên hơn; khuyếnkhíchkhách hàngchưa từngsdụngsảnphẩmcủacông ty mìnhhay khuyếnkhíchhtrnhữngđạilý, nhng nhàbánbuôn, bánlmua nhiềusảnphẩmdu lịchcủacông ty, trgiúp giớithiệucho công ty nhữngsảnphẩmmớiđếnvớikháchhàng. Công cxúctiếnbánhànggồm: phiếuthưởng, cácchương trìnhdu lịchmiễnphí,…

  • Bánhàngtrựctiếp:Đây làhoạtđộnggiao tiếptrựctiếp giữangườibánhàngvàkhách hànghiệnti, khách hàngtiềmnăng. Do cóstiếpxúctrựctiếpnên dgâyảnhhưởngđếnnhậnthức, tháiđ, tìnhcảmvàhànhvi củangườitiêu dùng.

  • MạngInternet vàmạngtruyềnthông tíchhợp: Công cnàysdụngmạngInternet kếthợpvi cácphương tiệntruyềnthông tíchhợpkhácđxúctiếnsảnphẩmvàdịchvđếnkhách hàng.



Xúc tác du lịch – đâu chỉ để thu hút khách du lịch

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Di tích lịch sử Nhà 54, Hà Nội


Ngôi nhà này trước là nhà ở của công nhân thợ điện phục vụ cho Phủ toàn quyền Đông Dương. Nhưng từ ngày 9/12/1954 Bác đã chính thức vào sống trong ngôi nhà này. Ngôi nhà này là một ngôi nhà ấm áp vào mùa đông nhưng mùa hè thì rất nóng bức. Bộ chính trị đã nhiều lần đề nghị lắp máy lạnh cho Bác nhưng Bác không cho, Bác chỉ cho phép sắm sữa những đồ dùng sử dụng hàng ngày. Hiện nay trong ngôi nhà này trưng bày các tặng phẩm của các nước XHCN và đồ dùng thường ngày của Bác.


Nhà 54 chia làm 3 phòng:


  • Phòng ngủ: Gồm có giường, bàn ghế và vài bộ quần áo của Bác.

  • Phòng ăn: trưng bày một bộ bàn ăn, 2 bên có 2 hàng ghế để mời những đoàn khách trong nước đến thăm bác nhất là những đoàn khách từ miền Nam ra.

  • Phòng làm việc: có giá sách có khoảng 300 cuốn sách với nhiều thứ tiếng và ở nhiều lĩnh vực. Trên tường treo 2 bức ảnh Mac và lê nin. Trên lò sưởi để bức tượng cô gái búp bê Nhật do hội hữu nghị Việt Nhật tặng và Bình rươu trống Bungari tặng.

Bác sống ở đây đến tháng 5/1958 thì sang nhà sàn ở. Bác ở ngôi nhà này 4 năm nhưng nó gắn bó với Bác 15 năm vì dù ở bên nhà Sàn nhưng hàng ngày bác vẫn qua đây ăn cơm.


 




Di tích lịch sử Nhà 54, Hà Nội

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

Cảnh đẹp miền núi phía Bắc Việt Nam


Đền vua Lê cũng đổ nát hết rồi, bậc đá đi lên đầy cỏ rác, tường sập từng mảng, để lộ chỗ vá víu. Trong đền một lư hương lớn đặt trên bệ. Bên ngoài một cây ngọc lan cao, những cây đa cây si thấp hơn.


Tại Cao Bằng còn có đền Kỳ Sầm thờ Nông Trí Cao. Hội đền vào ngày mười tháng giêng. Câu đối ở cửa gian chính bên trong chứng tỏ người dân ở đây rất tôn sùng Nông Trí Cao, coi như vị vua có cao vọng nhưng chưa thực hiện được hoài bão:


Đế nghiệp vị thành nhân dĩ lão


Vương phong giáp tích quốc đồng hưu.


Các đền miếu ở Cao Bằng còn thờ Hưng Đạo đại vương, các vị nhân thần địa phương, các tướng lãnh nhà Lê bỏ mình nơi chiến địa, các công nương nhà Mạc bị thảm sát và Quan Công (Quan Vân Trường). Nói chung dân chúng kính trọng lòng dũng cảm, đức trung hậu và thương xót những thân phận không may. Trong đền Phúc Tăng ở Bản Nưa xã Hồng Việt huyện Hòa An đặt bốn bát hương, thờ hai vị lão nông họ Hoàng và họ Lê có công trị thủy giúp dân, cùng hai vị tướng đối lập nhau, một người là Hoàng Triều Hoa tướng nhà Lê lên dẹp nhà Mạc, một người là tướng nhà Mạc tử trận ở Lũng Pản. Sự kiện này do Tri phủ Hoàng Đức Mỹ (Cử nhân sung Hàn lâm viện biên tu) chủ trương từ đầu thế kỷ XX và được dân chúng tán đồng, nêu cao tinh thần hòa hợp dân tộc sau một thời gian chiến tranh huynh đệ tương tàn. Hội đền Phúc Tăng vào ngày mồng 2 tháng 3.


Ngày nay, những người vãn cảnh có ý thức không khỏi ngậm ngùi trước biến cuộc tang thương, sẽ lắng hồn tìm trong lịch sử biết bao bài học quý giá.


Núi Mẫu Sơn


Vị trí: Cách thành phố Lạng Sơn 30km về phía đông.


Đặc điểm: Nằm ở độ cao 1.541m so với mặt biển, khí hậu trên núi ôn hòa, thích hợp cho việc nghỉ dưỡng.


Núi Mẫu Sơn được bao bọc bởi hàng trăm quả núi nhỏ. Khí hậu ở đây ôn hòa, Mùa đông, Mẫu Sơn luôn bị mây mù bao phủ. Về mùa hè, nắng vàng rực rỡ. Còn khi vào xuân, cả vùng Mẫu Sơn đỏ rực sắc hoa đào.


Đào trái Mẫu Sơn vừa to, vừa ngọt. Mẫu Sơn có loại chè tuyết rất ngon, đượm nước. Và rượu Mẫu Sơn thơm nồng do chính người nơi đây nấu bằng men có thành phần của một số cây thảo mộc chỉ có ở Mẫu Sơn. Chỉ ở độ cao ấy, với nguồn nước chảy ra từ lòng núi Mẹ, mới có hương vị rượu ngon nồng đến thế.


Đến Mẫu Sơn chẳng những để thưởng ngoạn cảnh sắc, không khí trong lành, mà còn được hòa mình vào cuộc sống con người, nền văn hóa của các dân tộc ít người nơi đây.


Đến Mẫu Sơn chẳng những để thưởng ngoạn cảnh sắc, không khí trong lành, mà còn được hòa mình vào cuộc sống con người, nền văn hóa của các dân tộc ít người nơi đây.


 


Trước đây, Mẫu Sơn vốn là khu nghỉ mát với nhiều biệt thự khang trang chẳng thua kém mấy so với SaPa, Tam Đảo. Nhưng rồi chiến tranh xảy ra, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy. Trong tương lai, Mẫu Sơn sẽ được xây dựng lại thành khu nghỉ dưỡng và phát triển ngành du lịch leo núi.


Trước đây, Mẫu Sơn vốn là khu nghỉ mát với nhiều biệt thự khang trang chẳng thua kém mấy so với SaPa, Tam Đảo. Nhưng rồi chiến tranh xảy ra, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy. Trong tương lai, Mẫu Sơn sẽ được xây dựng lại thành khu nghỉ dưỡng và phát triển ngành du lịch leo núi.




Cảnh đẹp miền núi phía Bắc Việt Nam

Thứ Hai, 17 tháng 11, 2014

Những di tích ở Chiến Khu Vần, Yên Bái


Làng Vần: là thung lũng được bao bọc bởi các dãy núi có độ cao trung bình từ 200 đến 500m, thung lũng có chiều dài 4,5 km, đường đi lại khó khăn, ngày nay được kết cấu bằng những chân ruộng bậc thang, sau cách mạng được đồng bào khai phá (có độ chênh lệch thấp) nay gọi là Đồng Trò, Đồng Cây Gạo,… có ngòi Vần chạy dọc theo làng. Đây cũng là hợp lưu của 3 con ngòi nhỏ để tạo nên ngòi Vần. Địa thế hiểm trở, xưa chỉ có một con đường duy nhất vào làng và phải qua đèo. Vừa kín đáo lại vừa gần các trung tâm chính trị (tỉnh lỵ hai tỉnh Yên Bái – Phú Thọ) nên khuvực này đã được xứ uỷ Bắc Kỳ chọn làm nơi thuận lợi cho việc lập căn cứ cách mạng dần phát triển hình thành mô hình kiểu chiến khu.


Làng Đồng Yếng: cách làng Vần khoảng 4 km về phía Đông và cách Hiền Lương hơn 3 km về phía Tây. Là làng nằm giữa Vần và Hiền Lương. Có vị trí thuận lợi, đồi hình mâm xôi nên Đồng Yếng được đội du kích Âu Cơ chọn làm trung tâm huấn luyện quân sự để phát triển lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng ở Yên Bái và Phú Thọ.


Sự hình thành di tích lịch sử (kiểu: chiến khu).


Từ nhận định tình hình chu đáo, biết địch biết ta và nhân dân vùng đất này vốn có truyền thống đấu tranh chống áp bức bóc lột và ngoại xâm của các tộc người, việc lựa chọn vùng đất ươm mầm cách mạng nơi đây sẽ sớm nảy mầm. Xưa vùng đất này chỉ có 3 tộc người: Kinh, Tày và Dao, có truyền thống gắn bó đoàn kết, thuỷ chung. Từ khi Mặt trời Cách mạng soi rọi đến đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, tinh thần nhân dân sẵn sàng ủng hộ và đi theo cách mạng.


Sau khi nhận định tình hình vị trí địa lý và tinh thần của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của xứ uỷ Bắc Kỳ, khi thành lập đội du kích Âu Cơ đã chuyển lên Đồng Yếng rồi vào làng Vần. Lấy Vần làm trung tâm chỉ huy, lấy Đồng Yếng làm trung tâm huấn luyện quân sự cho hình thành chiến khu.


Lãnh đạo chiến khu gồm có các đồng chí: Trần Quang Bình, Bình Phương, Ngô Minh Loan, Nguyễn Phúc, Trấn Đức Sắc (tức GS Văn Tân). Chiến khu cũng là nơi an toàn đón các đồng chí cách mạng kiên  trung vượt ngục nhà tù Sơn La về và một số hoạt động ở miền xuôi bị lộ lên tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng.


 




Những di tích ở Chiến Khu Vần, Yên Bái

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2014

Tháp Bình Sơn – tinh hoa kiến trúc nghệ thuật


Cả 11 tầng tháp đều được trang trí bằng nhiều loại hoa văn với các hình cánh hoa cúc, sư tử vờn cầu, sóng lượn lá đề, hoa chanh … Mỗi tầng tháp đều có nhiều hàng gạch khẩu nhô ra làm mái. Theo lão họa sĩ dân gian Nam Sơn (nguyên là ông từ chùa Vĩnh Khánh) và các cụ già trong vùng thì ở mỗi ô cửa tò vò của các tầng thấp xưa kia đều có tượng Phật Bà.


Hình rồng trang trí ở tháp Bình Sơn là rồng có sừng và cuộn tròn mình, đầu rúc vào giữa, chân đạp ra ngoài, sống lưng có vây như răng cưa, một chân trước đưa lên vuốt tóc. Hình sư tử vờn cầu ở chân bệ tháp đơn giản, hai con sư tử đều không có họa tiết và đồ án trang trí trên thân mà chỉ là hai hình trơn. Cặp sư tử ở đây không quay đầu đối nhau, đưa chân trước vờn cầu như kiểu ở một số chùa khác, mà một con tiến về phía quả cầu, một con đã tiến quá quả cầu, quả cầu nằm trên đuôi nó, còn nó quay đầu ngoảnh lại.


Về niên đại tháp Bình Sơn, một học giả thực dân là Bezacier cho ràng đây là “nghệ thuật Đại La”, có nghĩa là nghệ thuật thuộc văn hóa Đường du nhập sang Việt Nam vào thời Cao Biền làm quan đô hộ xứ giao châu (khoảng thế kỷ thứ VII). Đây là một quan điểm muốn tách công trình nghệ thuật tạo hình tuyệt tác này ra khỏi văn hóa bản địa và mang tư tưởng miệt thị dân tộc ta, đề cao công cuộc “khai hóa” của kẻ xâm lược. Ngày nay, các nhà nghiên cứu nghệ thuật tạo hình Việt Nam đã khẳng định tháp Bình Sơn là một công trình nghệ thuật của Việt Nam, do bàn tay và khối óc của nhân dân Việt Nam sáng tạo vào thời Lý – Trần. Niên đại tuyệt đối của tháp còn là một vấn đề cần được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.


Người dân Lập Thạch, hay các bạn khách xa gần mỗi khi có dịp từ Xuân Hòa ra bến Then, qua sông Lô sang Phú Thọ, hay từ bến Then về Xuân Hòa đi Vĩnh Yên, dẫu không có thời gian vào lễ chùa Vĩnh Khánh, cũng lưu luyến ngắm nhìn tháp Bình Sơn, cây tháp đã trải ngót nghìn năm tuổi vẫn tươi rói màu đỏ gạch nung, không một gợn rêu phong, và vẳng nghe đâu đó lời nhắn nhủ vọng lên từ xa xưa.


“Hỡi ai qua bến đò ThenDừng chân mà ngắm tháp tiên bên đường”




Tháp Bình Sơn – tinh hoa kiến trúc nghệ thuật

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2014

Các công trình kiến trúc ở Chùa Cổ


Theo truyền thuyết ở làng Mèn xưa (tên Nôm của làng Mãn Xá) có nàng Man Nương-con của Tiên ông Tu Định-lên chùa học đạo. Một buổi sau khi quét dọn cửa chùa, Man Nương thiếp đi ngay lối ra vào. Đức Khâu Đà La đi giảng đạo về thấy vậy không nỡ đánh thức mà bước qua. Man Nương sau đó thụ thai và sinh hạ một bé gái.


Đức Khâu Đà La mang hài đồng đến gần một cây dung thụ (cây dâu), không ngờ “tán cây xòe xuống và đứa trẻ biến vào thân cây”! Về sau cây bị mưa bão làm đổ xuống sông và trôi về vùng Luy Lâu. Dân phu các làng xô nhau ra kéo nhưng không tài nào đưa được cây vào bờ. Man Nươngbiết chuyện liền ra sông. Như có sự giao cảm của tình mẫu tử, nàng quăng dải yếm ra và kéo được cây vào bờ trước sự kinh ngạc của bao người. Chuyện xưa còn truyền rằng hài đồng sau đó đã hiển linh thành Thạch Cao Vương Phật ngự tại chùa Dâu. Thân cây dung thụ được người đời tạc thành bốn vị thần Tứ Pháp tương ứng và được thờ tại chùa Dâu, chùa Đậu, chùa Tướng và chùa Dàn thuộc các xã Thanh Khương, Trí Quả, huyện Thuận Thành. Gia trang của bậc sinh thành Man Nương được xây dựng thành chùa và người đời sau thường nhắc đến chùa Tổ với xuất xứ “Cải gia vi tự”.


Chùa Tổ gắn liền với lịch sử phật giáo Việt Nam và là nơi xuất hiện sớm nhất các công trình kiến trúc nghệ thuật cổ như giếng nước, chuông, khánh đồng, bia đá và nhiều bản khắc gỗ. Tại chùa hiện vẫn còn một giếng cổ tương truyền do Man Nương cắm cây gậy tích trượng của Đức Khâu Đà La tạo thành để cứu mùa màng khỏi khô hạn.


Từ mọi miền xa xôi trên đất nước ta các thiện nam, tín nữ hàng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 (âm lịch)  tấp nập hành hương về dự lễ hội chùa Tổ.


Chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cỡ quốc gia vào ngày 20-4-2001.




Các công trình kiến trúc ở Chùa Cổ

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

Cảnh đẹp Cát Bà – đắm say lòng người


Khí hậu trên đảo Cát Bà rất mát mẻ, trong lành, thích hợp cho du lịch nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Từ Hà Nội đến Cát Bà, khoảng 150km về phía đông, thuận tiện nhất là đi bằng đường bộ hay đường sắt đến Hải Phòng rồi từ Hải Phòng dùng ca nô hoặc tàu thủy ra đảo. Thuê một chiếc tàu du lịch, bạn có thể đi khắp vịnh Lan Hạ, ghé vào hơn 100 bãi tắm lớn nhỏ khác nhau, những bãi tắm cực đẹp với cái tên thật hấp dẫn: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Bãi Ðá Bằng, Bãi Bến Bèo, Bãi Cô Tiên…


Thậm chí, bạn có thể vòng sang vịnh Hạ Long, cũng chỉ mất 4 đến 6 giờ để tha hồ ngắm cảnh và ghé thăm những bãi tắm không tên, những hang động kỳ thú còn chưa được đưa vào danh sáchkhai thác. Ngay ở đảo Cát Bà, bạn cũng có thể đi thăm động Trung Trang, động Hoa Cương, động Thiên Long, nơi hứa hẹn nhiều phát hiện lý thú.


Cát Bà là một cụm du lịch thiên nhiên, sinh thái không thể tách rời. Ở đây đã phát hiện được nhiều di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ đồ đá mới, những di tích văn hoá Hạ Long và dấu vết của người Việt cổ. Ngày nay Cát Bà trở thành vườn quốc gia, bảo tồn trong lòng mình hệ sinh thái rừng nhiệt đới nguyên sinh. Biển Cát Bà có tới 300 loài cá biển, 500 loài thân mềm và giáp xác, trong đó nhiều loại có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất hàng mỹ nghệ quý như đồi mồi, tôm rồng, trai ngọc, san hô, vỏ trai, ốc biển…


Vườn Quốc gia Cát Bà vừa có rừng, vừa có biển với nguồn tài nguyên phong phú, cảnh quan đẹp và nhiều loại động thực vật quí hiếm. Tổng diện tích của vườn là 15.200ha, trong đó diện tích rừng núi là 9.800ha và diện tích biển là 4.200ha. Ðịa hình đa dạng, chủ yếu là núi đá vôi có nhiều hang động. Với độ cao trung bình là 150m, trong vườn còn có nhiều đèo nhỏ như đèo Ðá Lát, đèo Eo Bùa, đèo Khoăn Cao… và nhiều suối lớn quanh năm có nước như suối Thuồng Luồng, suối Treo Cơm, suối Việt Hải…Cát Bà hôm nay vẫn còn như một nàng tiên e lệ giữa biển khơi với dáng vẻ nguyên sơ, còn giữ được sức hấp dẫn với những truyền thuyết bao đời về bề dày lịch sử văn hoá của vùng đất này.


 




Cảnh đẹp Cát Bà – đắm say lòng người

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2014

Khu di tich các vua Trần, đền thờ các vị vua ở Thái Bình


Vị trí: Khu di tích các Vua Trần thuộc xã Tiến Đức và xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.


Đặc điểm: Khu di tích nhà Trần đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa di tích khảo cổ học cấp quốc gia.Nó chẳng những thu hút các nhà nghiên cứu sử học, các nhà văn hóa mà còn là một điểm du lịch có giá trị đặc biệt, là nơi liên quan đến cội nguồn dân tộc luôn luôn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước về thăm.


Mảnh đất Hưng Hà – Thái Bình là nơi chứa đựng những dấu ấn lịch sử gắn chặt với triều đại nhà Trần (1226 – 1400), các vua khai sáng nhà Trần đều được sinh ra tại đây, gia tộc nhà Trần dựa vào đây dấy nghiệp. Khi đã thành vương triều Trần, vùng đất này được chọn làm nơi xây dựng các đền thờ, lăng tẩm của Hoàng tộc nhà Trần. 


Nơi đây có di chỉ khảo cổ mộ các vua Trần (xã Tiến Đức); khu lăng mộ thái sư Trần Thủ Độ, đình Khuốc, đình Ngừ thờ thái sư, mộ và đền thờ Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung (xã Liên Hiệp); Tam đường – là nơi lưu giữ hài cốt của các tổ tiên triều Trần như: Thuỷ tổ Trần Kinh, thái tổ Trần Hấp, nguyên tổ Trần Lý, thái thượng hoàng Trần Thừa … Các hoàng đế nhà Trần như Trần Thánh Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cùng các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp táng tại các lăng mộ có tên Thọ lăng, Chiêu lăng, Dự lăng, Quy đức lăng…


Cùng với lăng mộ, nhà Trần còn cho xây dựng các cung điện như điện Tịnh Cương, điện Hưng Khánh, điện Thiên An, điện Diên Hiền.


Lịch sử Việt Nam thế kỷ 13, 14 (từ 1226 – 1400) gắn liền với công lao và sự phát triển rực rỡ của vương triều nhà Trần. Những chiến công lừng lẫy của 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông, cùng với các cuộc chinh phạt quân Chiêm Thành phía Nam đã làm cho khoa học và nghệ thuật quân sự của triều Trần đạt được những thành tựu vượt bậc. Dưới đời Trần, các mặt chính trị,kinh tế, văn hóa xã hội đều phát triển cao, tạo nên nền văn hóa đặc sắc của nước Đại Việt thời Trần. Tên tuổi của các vị vua Trần cùng các chiến thắng Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Bạch Đằng … mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.


Bởi những ý nghĩa và giá trị văn hóa lịch sử quý giá trên, khu di tích nhà Trần thuộc xã Tiến Đức, xã Liên Hiệp đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa di tích khảo cổ học cấp quốc gia. Vì vậy, nó chẳng những thu hút các nhà nghiên cứu sử học, các nhà văn hóa mà còn là một điểm du lịch có giá trị đặc biệt, là nơi liên quan đến cội nguồn dân tộc luôn luôn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước về thăm.




Khu di tich các vua Trần, đền thờ các vị vua ở Thái Bình

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2014

Du lịch miền Tây: đừng quên ghé miệt vườn, chợ nổi


 


Miệt vườn tiêu biểu cho hình thức sinh hoạt vật chất và tinh thần cao nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long (chúng ta từng nghe nói về vườn, công tử vườn, bắp vườn, nhà vườn,…) Cho nên đã phát sinh câu ca dao:


Mẹ mong gả thiếp về vườn,


Ănbông bí luộc, dưa hường nấu canh.


 


Quả thực miệt vườn là nơi trù phú, khoáng đãng, trong lành và mang lại lợi ích kinh tế.Dưỡng già, sống những ngày hưu trí ở miệt vườn là thong dong nhất.


        Đã là sông nước miền tây thì tất nhiên không thể bỏ qua sự chằng chịt của những dòng kênh, rạch.Với hơn 54,000km chiều dài sông rạch, vùng châu thổ sông Mê Kông, miền tây Nam Bộ có một nền văn minh văn hoá sông nước đặc trưng không nơi nào ở Việt Nam có được, đặc biệt là những chợ nổi trên sông đã có tuổi hàng mấy trăm năm từ khi khai hoang lập đất với hình ảnh những con thuyền đủ kiểu dáng.


Sông mẹ Mêkông, đổ vào nước ta với hai nhánh chính là sông Tiền, sông Hậu, rồi sông sinh ra hàng trăm sông con, chia nhỏ ra thành hàng ngàn con rạch, chia nhỏ nữa cơ man những con xẻo, khóm, mương, ngòi… Cả một hệ thống sông nước chằng chịt như mạng nhện đã tạo cho vùng châu thổ sông Mêkông, miền Tây Nam Bộ một nền văn minh, văn hoá sông nước đặc biệt.Và phương tiện giao thông không gì khác ngoài các loại thuyền, mà kiểu dáng, tên gọi cũng phong phú như một bộ sưu tầm trong bảo tàng cuộc sống sông nước miền này. Thuyền ở đây không chỉ là phương tiện giao thông, mà mỗi chiếc còn như là một căn nhà nổi di động trên sông, chở cuộc đời số phận con người qua năm tháng. Thuyền ở miền Tây Nam Bộ được gọi theo nhiều cách khác nhau tùy theo hình dáng: Ghe, xuồng,… phân biệt theo loại của mỗi vùng sông. Như vùng sông từ Long An đến An Giang, xuồng có lườn tròn để dễ lướt trên lục bình (bèo tây); Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau xuồng lườn phẳng, hay còn gọi xuồng ba lá do có 3 tấm gỗ ghép vào, dùng lướt sông rộng được nhanh.




Du lịch miền Tây: đừng quên ghé miệt vườn, chợ nổi

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2014

Đến thăm Làng nghề rượu Bàu Đá


Vị trí: Làng rượu Bàu Đá thuộc địa phận thôn Cù Lâm Bắc, xã Nhơn Lộc, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.


Đặc điểm: Đây là nơi chế biến ra loại rượu thơm ngon nổi tiếng, sánh ngang với các sản phẩm rượu nổi tiếng khác của Việt Nam.


Từ Tp. Quy Nhơn, theo quốc lộ 1A khoảng hơn 10km về hướng bắc, du khách sẽ đến huyện An Nhơn. Đi tiếp theo quốc lộ 19 khoảng 10km nữa về hướng tây, du khách sẽ tới xã Nhơn Lộc.


Xã Nhơn Lộc - quê hương của đặc sản rượu Bàu Đá, loại rượu từng được thi sĩ Tản Đà xứng tụng là “đệ nhị danh tửu”, có khoảng hơn 1.000 hộ nấu rượu trong lúc nông nhàn và vào các ngày lễ tết. Riêng thôn Cù Lâm Bắc có khoảng vài chục hộ sinh sống chủ yếu bằng nghề nấu rượu.


Theo tương truyền, thuở xưa có một người phụ nữ tên Đấu quê ở huyện Tây Sơn (Bình Định), lấy chồng về làng Bàu Đá và đem theo nghề nấu rượu gia truyền. Để có được rượu ngon, bà đã phải dùng nước đựng trong bàu của gia đình mình để nấu rượu, bởi vậy mà rượu mới thơm ngon và có hương rất riêng, khác hẳn các loại rượu khác. Sau khi bà mất, bà đã để lại công thức nấu rượu gia truyền cho người dân trong làng. Để tưởng nhớ công ơn của bà, người dân làng Bàu Đá đã lấy tên bà để đặt tên cho thứ rượu tuyệt hảo này, nhưng để không phạm huý, người ta đã gọi lái sang là Bàu Đá (bà Đấu).


Theo các lão làng có kinh nghiệm lâu năm trong nghề nấu rượu Bàu Đá cho biết, để có một nồi rượu thơm ngon, người ta phải dùng gạo trì để nấu, mỗi mẻ là 5kg gạo, nấu đúng 6 tiếng đồng hồ và chỉ cất được từ 2,5 – 3 lít rượu.


Về đồ nghề làm rượu, người ta sử dụng củ tre có hình cong, ruột đục rỗng để làm ống dẫn rượu từ lò ra chum. Chum đất hứng rượu phải được bịt kín để tránh rượu bay hơi. Trong thời gian nấu, thông thường người ta chỉ để lửa liu riu, tuy nhiên, vẫn phải thường xuyên lắng nghe giọt rượu nhỏ nhanh hay chậm để thêm hay bớt lửa. Chính vì cách nấu cẩn thận này mà rượu Bàu Đá có hương vị rất tinh khiết và đậm đà.


Hiện nay, rượu Bàu Đá Bình Định đã và đang được người tiêu dùng trong tỉnh, trong nước và du khách nước ngoài rất ưa chuộng vì chất lượng rượu không thua kém những sản phẩm rượu nổi tiếng khác như: Rượu làng Vân (Bắc Giang), rượu Sán Nùng (Lào Cai)… Để sản phẩm rượu BàuĐá ngày càng nổi tiếng hơn, xã Nhơn Lộc đã đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng, các khu bán đồ lưu niệm phục vụ khách tham quan, đặt biển hướng dẫn đến làng nghề trên quốc lộ 1A, quốc lộ 19 và tỉnh lộ 636B; đồng thời, phát triển làng nghề dưới hình thức làng nghề du lịch sinh thái.


 




Đến thăm Làng nghề rượu Bàu Đá

Chủ Nhật, 9 tháng 11, 2014

Các di tích lịch sử văn hóa triều đại Tây Sơn Nguyễn Huệ


 


Nhạc trống Tây Sơn:


Xuất thân từ quê hương nổi danh về võ, nổi tiếng về tuồng hát Bình Định, vua Quang Trung rất ham văn chuộng võ và có tâm hồn nghệ sĩ. Ông đưa nhạc vào võ; dùng nhạc võ để xung trận qua những tiếng trống mà người ta gọi là nhạc trống, một hình thức quân nhạc thời trung cổ. Từ đó “Trống Tây Sơn’’ nổi danh trên đất nước và lưu truyền mãi cho tới ngày nay.


Trống Tây Sơn là dàn trống 16 chiếc lớn nhỏ. Khi đánh lên nghe thật hào hùng khích động, như hun đúc tinh thần chiến đấu và thúc giục quân lính lao vào trận chiến. Khi biểu diễn thì chỉ cần một người có thể đánh 16 trống, tùy theo nhịp điệu và bộ điệu. Khi tập luyện, người tập đứng trên hai khúc gỗ tròn lớn gấp đôi quả bưởi. Đôi chân phải điều khiển hai khối tròn đó một cách nhanh nhẹn; còn cùi chỏ, bàn tay và vai đều được sử dụng để đánh trống theo nhịp điệu của đường quyền. Người đánh phải dùng thế võ côn quyền mới đánh được nhiều trống. Khi ra trận thì chỉ dùng hai trống đặt trên xe đẩy. Hai dùi trống không chỉ dùng để đánh trống thúc quân mà còn là khí giới giết địch.


Bến đò Đại Nài, nơi truyền hịch gọi đò của vua Quang Trung :


Bến đò Đại Nài ở xã Thạch Hòa hiện nay, cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 3 cây số về phía Đông Nam. Sông ở đó rộng, hai bên bờ là bến cát, dễ qua lại. Bên khúc sông này có làng dân chài gọi là Vạn Nài. Cụ Dương Lung ở xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà đã cung cấp một văn bản chữ Nôm, nguyên văn Hịch gọi đò mà người ta cho là của vua Quang Trung. Hịch này được truyền ra trong một đêm cuối tháng 12 năm 1788, khi đại quân Bắc tiến diệt Thanh phải dùng bến đò Đại Nài.


“Ngang thiên chi tường


Bùng binh chi quân


Khẩn đáo Bắc Hà


Tảo trừ Thanh Tặc


Đại binh chi tề tựu giang biên


Yếu đắc tốc hành cấp hạn


Sở tại chi quan,


Giang biên chi dân


Tốc bát giang thuyền,


Giải thanh bề bề bộn bộn


Bất lai tức trảm trảm, thu tru,


Tư truyền.”


Nghĩa là:


Tướng ngang trời,


Quân trùng điệp,


Phải kịp đến Bắc Hà.


Để quét sạch quân Thanh


Tất cả đã đến sát bờ sông


Cần đi ngay cho kịp.


Quan sở tại.


Dân hai bên bờ sông,


Nhanh chèo thuyền đến,


Chuyển kịp quân sang cho khỏi bề bộn.


Ai chống truyền lại sẽ bị chém đầu.


Nay truyền.


 




Các di tích lịch sử văn hóa triều đại Tây Sơn Nguyễn Huệ

Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2014

Mộ bác sĩ Yersin tại Nha Trang


Dừng chân trên quốc lộ 1A ngay cột km 1473, nơi cách Đà Lạt 191km và cách Nha Trang 20km, bạn sẽ thấy ngay tấm biển đề “Khu mộ Bác sĩ Yersin” (mặt bên kia ghi dòng chữ Pháp “Tombeau du Dr. Yersin”). Rẽ vào 800m theo hướng mũi tên là đến mộ “Ông Năm Yersin”, nằm trên ngọn đồi nhỏ ở Suối Dầu thuộc xã Suối Cát, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.


Đi theo con đường mát rượi bóng cây phượng vĩ, keo lá tràm sẽ gặp một đoạn đường lát đá dẫn vào cổng khu mộ của con người được xem là ân nhân của nhân loại này. Lối đi lượn hình cánh cung rợp bóng cây canh-ki-na dẫn đến một ngôi mộ rất đỗi đơn sơ, lặng lẽ quanh năm nghe gió hát trên những vòm cây. Một nhân cách lớn yên nghỉ trong ngôi mộ nhỏ với dòng chữ giản dị: “Alexandre Yersin 1863-1943”.


Ông tên họ đầy đủ là Alexandre John Emil Yersin, người gốc Pháp, sinh tại Thụy Sĩ. Ông được mệnh danh là “Người vẽ lại bản đồ y học thế giới” với công trạng được ghi trên tấm bia nơi đầumộ ông: “Phát hiện độc tố bệnh bạch hầu năm 1888. Thám sát lần đầu cao nguyên Lâm Viên năm 1893 giúp thiết lập nên thành phố nghỉ mát Đà Lạt. Tìm ra vi trùng bệnh dịch hạch năm 1894 và điều chế huyết thanh chữa trị. Sáng lập Viện Pasteur Nha Trang năm 1895”. Nhờ phát kiến của ông, y học thế giới đã tìm được các phương pháp điều trị một số bệnh liên quan. Văc-xin và se-rum do chính ông điều chế được tại Nha Trang đã cứu được rất nhiều nạn nhân dịch hạch trên toàn thế giới.


Ông có công di thực cây cao su từ Brasil vào trồng tại Việt Nam năm 1897, xây dựng đồn điền canh-ki-na đầu tiên ở Việt Nam năm 1917 để sản xuất ký ninh chữa bệnh sốt rét. Ông lập Trại chăn nuôi Suối Dầu để điều chế huyết thanh và nghiên cứu khoa học trong những năm tháng sống ở Khánh Hòa. Người dân địa phương gần gũi ông đều gọi ông một cách trìu mến là Ông Năm Yersin. Ngoài việc thờ ông ở chùa Linh Sơn gần đó, bà con còn lập một miếu thờ có dạng chùa Một Cột bên cạnh mộ ông, bốn mùa hương khói theo truyền thống văn hóa tâm linh Việt.


Ngày 28-9-1991, Khu mộ A.Yersin, chùa Linh Sơn và Thư viện A.Yersin (do chính ông sáng lập và hoạt động đến ngày nay tại Viện Pasteur Nha Trang), đã được xếp hạng cụm di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Thư viện A.Yersin đã được Bảo tàng Pasteur (Pháp) và Viện Lịch sử y họcLausanne(Thụy Sĩ) viện trợ xây dựng thành Bảo tàng A.Yersin.


Ông qua đời tại nhà riêng ở Nha Trang năm 1943. Mặc dù ông muốn được chôn tại Suối Dầu với đám tang giản dị, không điếu văn, nhưng rất đông người đã đến đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Khách hành hương mỗi khi thắp một nén nhang, đặt một vài cành hoa lên ngôi mộ nhỏ, cảm thấy chạnh lòng giữa cảnh quạnh hiu, hoang vắng. Trái tim con người vĩ đại đã vĩnh viễn ngừng đập, nhưng những gì ông để lại cho đời vẫn mãi gõ nhịp trong trái tim nhân loại.


Điểm đặc biệt là trước khi chết ông yêu cầu hãy đặt ông nằm sắp người để ông có thể ôn lấy vùng đất Nha Trang này-quê hương thứ hai của ông.




Mộ bác sĩ Yersin tại Nha Trang

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2014

Tìm hiểu về Khánh Hòa


Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam. Tỉnh này giáp với tỉnh Phú Yên về hướng bắc, tỉnh Đắk Lắk về hướng tây bắc, tỉnh Lâm Đồng về hướng tây nam, tỉnh Ninh Thuận về hướng nam, và Biển Đông về hướng đông.


Khánh Hòa ngày nay là phần đất cũ của xứ Kauthara thuộc vương quốc Chăm pa. Năm 1653, lấy cớ vua Chiêm Thành là Bà Tấm quấy nhiễu dân Việt ở Phú Yên, Chúa Nguyễn Phúc Tần bèn sai quan cai cơ Hùng Lộc đem 3000 quân sang đánh chiếm được vùng đất Phan Rang trở ra đến Phú Yên đặt dinh Thái Khang gồm hai phủ là phủ Thái Khang và phủ Diên Ninh. Đến năm 1831 (năm Minh Mạng thứ 12), Vua Minh Mạng thành lập tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở trấn Bình Hòa (dinh Thái khang cũ). Năm1975 hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa hợp nhất thành tỉnh Phú Khánh. Đến năm 1989, Quốc hội lại chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa cho đến ngày nay.


Khánh Hòa hiện nay bao gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh (Nha Trang), 1 thị xã (Cam Ranh) và 7 huyện (Vạn NinhNinh Hòa,Diên KhánhKhánh VĩnhKhánh SơnCam LâmTrường Sa) với diện tích 5217,6 km². Một phần Quần đảo Trường Sa (huyện Trường Sa) nằm dưới sự quản lý của tỉnh Khánh Hòa, nhưng bị tranh chấp về chủ quyền bởi một số quốc gia khác.


Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số tỉnh Khánh Hòa là 1.156.903 người, mật độ trung bình 222 người/km².


Khánh Hòa có bờ biển dài hơn 200 km và gần 200 hòn đảo lớn nhỏ cùng nhiều vịnh biển đẹp như Vân PhongNha Trang (một trong 29 vịnh đẹp nhất thế giới), Cam Ranh… với khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình 26C, có hơn 300 ngày nắng trong năm, và nhiều di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng khác. Với những lợi thế đó Khánh Hòa đã trở thành một trong những trung tâm du lịch lớn của ViệtNam.


Tỉnh lỵ của Khánh Hòa đặt tại Nha Trang một thành phố du lịch và sự kiện[5 cũng là nơi từng diễn ra nhiều sự kiện lớn nhưFestival Biển (Nha Trang), hay các cuộc thi sắc đẹp lớn như Hoa hậu Việt Nam 2006Hoa hậu Thế giới người Việt 20072010Hoa hậu Hoàn vũ 2008.


 




Tìm hiểu về Khánh Hòa

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2014

Đời sống kinh tế của người Chăm


Người Chăm định cư trên dải đất miền Trung với đặc điểm địa hình là miền đất hẹp, kéo dài và được cấu tạo bởi ba vùng: Núi – Đồng bằng – Biển cả. Khí hậu nơi đây khắc nghiệt, khô ẩm, nhiều nắng, ít mưa. Điều kiện tự nhiên, địa lí môi sinh đó đã hình thành nên nền kinh tế của người Chăm.


Trong nền kinh tế truyền thống của mình, người Chăm có một nền nông nghiệp phát triển khá sớm. Từ lâu đời họ đã biết đắp đập khai mương để trồng lúa nước mà đến nay vẫn còn các dấu vết các công trình thủy lợi trên dải đất miền trung như: đập Do Linh (Quảng Trị), đập Nha Trinh và đập Marên (Ninh Thuận). Họ còn có kĩ thuật canh tác ruộng nước khá cao. Tùy theo loại ruộng như ruộng gò (hamu tamu), ruộng cát (hamu cwah), ruộng sâu (hamu dhong) mà họ có kĩ thuật canh tác và sử dụng các loại giốngl úa ngắn ngày, cho năng suất cao như loại giống lúa chiêm, lúa mùa (padai bidiên, padai halim, paday ia ok, padai kuprok…). Do đó không phải ngẫu nhiên mà người Trung Quốc và người Kinh đều du nhập giống lúa của người Chăm mà họ thường gọi là “lúa Chiêm”.


Bên cạnh làm ruộng người Chăm còn là những người làm vườn giỏi. Họ trồng nhiều hoa màu và cây ăn trái như ngô, khoai lang, đậu xanh, đậu nành, chuối, dừa, hồ tiêu… Nhờ đó mà dân cư có hoa quả và ăn rau xanh 4 mùa. Bên cạnh nghề nông, người Chăm còn biết khai thác những khu rừng lớn có các loại gồ mun, trầm hương, vỏ cây làm thuốc nhuộm… rất được ưa thích trên thị trường. Họ cũng biết khai thác tài nguyên khoáng sản ở xứ họ để đem bán ở xa. Người Chăm còn làm nghề biển, họ là những thủy thủ can trường, là những người buôn bán giỏi. Những chiếc thuyền buôn của họ thường vượt biển khơi đi đến hải cảng Trung Quốc và có mối quan hệ với các nước Java trong thời cổ trung đại.


Nói chung kinh tế truyền thống của người Chăm bao gồm cả nghề nông, nghề đi biển và khai thác rừng. Ba hình thái kinh tế đó đã góp phần làm cho đời sống kinh tế Chăm phát triển phồn thịnh và hiện nay còn in dấu ấn đậm nét trong lễ hội Chăm. Tuy nhiên ngày nay, một số ngànhkinh tế truyền thống đã bị mất đi. Hiện nay người Chăm không còn làm nghề biển. Tuy một số làng Chăm ở Ninh Thuận như Bỉnh Nghĩa, Tuấn Tú vẫn còn sống gần biển nhưng họ không làm nghề biển mà lại quay lưng với biển. Đa số (khoảng 95%) người Chăm Ninh Thuận ngày này sống bằng nghề nông, và một số ít làm nghề chăn nuôi và khai thác rừng. Đến nay họ vẫn còn phát huy truyền thống làm lúa nước và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Hoạt động nông nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ đạo trong đời sống kinh tế chủ đạo trong đời sống kinh tế của người Chăm hiện nay.


 




Đời sống kinh tế của người Chăm

Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014

Nét văn hóa trong chiếc khăn đội đầu (tanrak)của người Chăm


Khăn đội của phụ nữ Chăm thường dệt bằng vải thô màu trắng , xanh, đỏ,vàng… Khăn có kích thước (129cm x 32cm), có dệt loại hoa văn quả trám, cùng màu phủ kín lên mặt vải, khăn đội đầu của người Chăm hồi giáo Bà Ni thường màu trắng, có may thêm cạp vải hoa văn theo dọc đường biên của khăn gọi là “khăn mbram”. Còn phụ nữ Chăm Bàlamôn bình dân thường thích đội khăn màu trơn, không may cạp vải hoa văn. Ngoài ra phụ nữ Chăm còn có loại khăn choàng vai, và khăn cầm tay màu đỏ và hộp túi vải để đựng trầu cau.


Cách đội khăn của người Chăm là quấn lên đầu, vòng từ sau ra trước, một phần trùm xuống đỉnh đầu, rồi hai mép gặp lại, buông chùng xuống hai tai. Ngày nay việc đội khăn truyền thống chỉ còn lại ở phụ nữ lớn tuổi, còn giới trẻ thì đội nón, chỉ còn đội khăn truyền thống trong những dịp lễ hội.


Trang phục nam giới:


Áo nam giới (aw likey):


Đây là loại áo ngắn (aw lah) truyền thống của người đàn ông Chăm. Áo được may bởi 6 mảnh vải với nhau: mặt thân sau có hai mảnh vải tách rời, rồi họ lại may dính vào nhau tạo thành một đường viền chạy dọc theo sóng lưng (khổ vải khung dệt không cho phép khổ vải quá một mét nên họ phải dùng hai mảnh để may ghép lại): phía thân trước cũng gồm hai mảnh vải ghép lại; và hai bộ phận còn lại là hai vải ống tay may dính vào hai phần nách và phần vai. Áo ngắn chỉ mặt chùng xuống đến mông, xẻ hai bên hông khoảng 20cm. Áo ở phía trước có đường xẻ, đính khuy và hai bên vạt trước có hai cái túi. Cổ áo thường là cổ con, tròn đứng, ôm sát cổ. Áo thường có nhiều màu trắng: trắng, đỏ, xanh, vàng… nhưng không có trang trí hoa văn.


Áo nam giới Chăm còn có một loại áo khác gọi là “aw tah” (áo dài). Áo được dệt bằng vải thô màu trắng, được may ghép bằng nhiều mảnh vải. Áo tah không xẻ thân phía trước, không có hàng khuy mà chỉ xẻ một đường xiên trước ngực, dùng dây để buột thay nút. Áo mặt chui đầu (aw loah) và phủ dài đến đầu gối. Áo này hiện nay không được mặc phổ biến chỉ được mặc trong các nghi lễ.




Nét văn hóa trong chiếc khăn đội đầu (tanrak)của người Chăm

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014

Tháp Poshanư, địa danh cổ của người Chăm


Nhóm đền tháp Chăm Pôshanư tọa lạc trên đồi Bà Nài thuộc xã Phú Hải về phía Đông – Bắc cách thành phố Phan Thiết chứng 7km được người Chăm xây dựng từ những cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hoà Lai – một trong những phong cách nghệ thuật cổ của Vương quốc Chămpa, mà hiện nay những ngôi tháp này còn lại rất ít như một số phế tíchở khu thánh điạ Mỹ Sơn, còn lại nhóm Hoà lai (Phan Rang) nhóm Pôdam (Tuy Phong – Bình Thuận) và tương đối nguyên vẹn là nhóm đền tháp Pôshanư.


Nhóm tháp gồm có 3 tháp : Tháp chính A hơi nhếch về phía Nam, hai tháp phụ là B hơi nhếch về phiá Bắc và C nhếch về  hướng Đông cạnh tháp A. Nội dung của việc xây dựng nhóm tháp trong giai đoạn lịch sử này để thờ thần Shiva ( một trong những vị thần Ấn độ giáo được người Chăm sùng bái, tôn kính) biểu hiện bằng bệ thờ Linga-Yôni bằng đá hiện còn lưu giữ tại  tháp chính. Đến thế kỷ XV người Chăm tiếp tục xây dựng một số đền thờ dạng kiến trúc đơn giản để thờ  công chúa Pôshanư, tương truyền là con vua ParaChanh được nhân dân yếu quý về tài đức và phép ứng xử của Bà đối với người Chăm đương thời. Những cuộc khai quật khảo cổ học từ 1992-1995 đã phát hiện nhiền nền móng của những ngôi đền bị sụp đổ và bị vùi lấp  hàng trăm năm nay, cùng với gạch ngói và một số hiện vật trong lòng các đền tháp có niên đại từ thế kỷ XV. Từ đây tháp có tên gọi là Pôshanư.


Pôshanư là nhòm đền tháp Chăm có vai trò quan trọng trong số các di tích kiến trúc Chăm ở Bình Thuận, từ hình dạng kiến trúc đến kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật trên thân tháp, các vòm cuốn, các cửa chính, cửa giả, trong lòng và lên đến đỉnh tháp. Riêng kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật còn lại ở thân Tháp đủ gợi lên yếu tố thẩm mỹ khá riêng biệt của phong cách Hoà Lai.




Tháp Poshanư, địa danh cổ của người Chăm

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2014

Tìm hiểu về vùng đất Bình Thuận


 


Bình Thuận là một tỉnh duyên hải cực Nam Trung bộ, phía Đông bắc và Bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Bắc và Tây Bắc giáp Lâm Đồng, phía Tây giáp Đồng Nai, phía Tây Nam giáp Bà Rịa Vũng Tàu, phía Đông và Đông Nam giáp Biển Đông.


Tổng diện tích 7.828km2 , dân số 1.169.450 người (2009), có 34 dân tộc anh em sinh sống như: Kinh, Chăm, Gia Rai, Hoa, Cơ Ho, Tày, Chơ Ro, Nùng…


Bình Thuận gồm 1 thành phố Phan Thiết, 1 thị xã La Gi, và 8 huyện: Tuy Phong, Bắc bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Đức Linh, Tánh Linh, Phú Quý.


Địa hình của tỉnh có thể chia thành 3 vùng: vùng rừng núi, vùng đồng bằng và vùng ven biển. Bờ biển dài 192km ( từ mũi Đá Chẹt giáp Cà Ná- Ninh Thuận đến bãi bồi Bình Châu- Bà Rịa Vũng Tàu), có nhiều nhánh núi đâm ra biển tạo nên các mũi: La Gàn, Mũi nhỏ, Mũi Rơm, Mũi Né, Kê Gà, chia bờ biển thành những đoạn lõm, vòm, tạo ra những vùng cửa biển tốt như: La Gàn- Phan Rí, Mũi Né- Phan Thiết, La Gi. Ngoài khơi có đảo Phú Quý diện tích 16,5km2, là cầu nối giữa đất liền với quần Đảo Trường Sa.


Các song chảy qua tỉnh là song La Ngà ( từ cao nguyên Di Linh đổ xuống Bờ Biển Lạc), sông Quao, sông Công, sông Dinh.


Bính Thuận nằm trong vùng nhiệt đới, ít chịu ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc, khí hậu nóng, khô hạn. Nhiệt độ trung bình năm 260-270C, lượng mưa trung bình năm 800- 1.150mm.


Là tỉnh có nhiều rừng . Cong nghiệp chế biến gỗ, chế biến hạt điều và sản xuất hàng thủ công là thế mạnh của tỉnh. Bình Thuận có bờ biển dài, ngoài khơi giàu hải sản như cá thu, nục, ngừ, cơm, mực. Kinh tế bin63 phát triển mạnh, nhất là các lĩnh vực đánh bắt hải sản, sản xuất nước mắm, hải sản đông lạnh, làm muối.


Thành phố Phan Thiết cách thành phố Hồ Chí Minh 200km. Bình Thuận có quốc lộ 1A, đường sắt Bắc- Nam đi qua tỉnh, Quốc lộ 55 đi Bà Rịa- Vũng Tàu, Quốc lộ 28 từ thành phố Phan Thiết đi huyện Di Linh của tỉnh Lâm Đồng.        Có nhiều bãi tắm cát trắng, nước trong xanh sạch s4 cùng với những dãy núi trùng điệp nối những bãi biển nên thơ và những dải đồng bằng bát ngát. Thiên nhiên và con nnguoi72 tạo nên một Bình Thuận có nhiều “cái nhất” như: Đồi cát đẹp nhất, nhà thờ cá voi lớn nhất, đèn biển cao nhất, thanh long nhiều và ngon nhất, tượng phật dài nhất, bãi đá có nhiều hình và màu sắc nhất…tất cả đều khắc họa vẻ đẹp riêng hấp dẫn du khách mọi miền đến với Bình Thuận.


Một số địa diểm du lịch tiêu biểu như: Trường Dục Thanh, hải đang Khe Gà, khu du lịch Tà Cú và chùa Linh Sơn Trường Thọ, bãi biển Đồi Dương, Mũi Né, Đồi cát, hòn Rơm, bàu Sen, Chùa Hang và khu du lịch Cổ Thạch, tháp Poshanư…




Tìm hiểu về vùng đất Bình Thuận

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

Tham quan khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến


Một trong những điểm hấp dẫn khác của khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến là vườn bách thú rộng 12,5ha. Đây là vườn thú mở đầu tiên tại Việt Nam với hơn 100 loài động vật có vú, chim chóc, bò sát và các loài cá cảnh chung sống hài hòa trong một môi trường sinh thái đa dạng. Đến đây du khách sẽ có cơ hội tận mắt chứng kiến những con thú được nuôi thả trong môi trường bán tự nhiên, đặc biệt có những loài quý hiếm lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam như: sư tử trắng, hổ trắng, linh dương sừng xoắn, khỉ sóc Nam Mỹ… Ngoài ra, với vườn thú đêm lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam, du khách có thể quan sát được đời sống, tập tính sinh hoạt, săn mồi vào ban đêm của các loài động vật hoang dã nhờ vào hệ thống đèn ánh trăng tại vườn thú. 


Bên cạnh đó, khu vui chơi giải trí hiện đại với hơn 40 trò chơi từ cảm giác nhẹ nhàng, thư giãn đến trò chơi cảm giác mạnh thử thách tinh thần, từ trò chơi mạo hiểm đến trò chơi khám phá những điều bí ẩn của thiên nhiên có thể đáp ứng mọi nhu cầu của du khách. Hầu hết các trò chơi này đều lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. Đặc biệt, biển nhân tạo Đại Nam với tổng diện tích 21,6ha bao gồm 2 khu vực: biển nước ngọt và biển nước mặn là nơi thư giãn rất lý tưởng cho du khách. Nước biển mặn Đại Nam được pha chế từ muối biển vùng Vĩnh Hảo – Tuy Phong – Bình Thuận và các khoáng chất hòa tan trong nước biển với độ mặn thích hợp, rất tốt cho sức khỏe. Sóng biển được tạo bằng hơi gió với 9 kiểu tạo sóng vô cùng độc đáo.Các trò chơi nước thú vị dành cho trẻ em, sân chơi thể thao dành cho người lớn cùng với những món ăn hải sản mang đậm phong vị biển, chắc chắn sẽ đem đến cho quý khách những phút vui chơi, thư giản thật thoải mái.


Nằm trong quần thể khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến còn hệ thống khách sạn mang những nét đặc trưng kết hợp của kiến trúc thành Cổ Loa và cung đình Huế, tạo cho du khách có dịp nhìn về quá khứ của cha ông ta thuở ban đầu thời kỳ dựng và giữ nước. Bên cạnh đó, khu mua sắm Đại Nam với diện tích hơn 8.000m² cùng nhiều mặt hàng đa dạng, phong phú sẽ đáp ứng được nhu cầu mua sắm của du khách. 


Với quy mô một khu du lịch như vậy, Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến đang nắm giữ nhiều kỷ lục quốc gia: ngôi đền lớn nhất, khách sạn dài nhất, núi, sông nhân tạo dài nhất, biển nhân tạo rộng nhất, quảng trường lớn nhất, vườn thú có nhiều loại quý hiếm nhất và tốn kém nhất. Đây chính là công trình mang đậm ý nghĩa giáo dục, văn hóa, lịch sử.




Tham quan khu du lịch Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2014

Những điều bạn chưa biết về xa lộ Đại Hàn


Đây là đoạn đường được mang nhiều cái tên: Xa lộ Đại Hàn, Quốc lộ 1A, đường Xuyên Á


Xa lộ Đại Hàn là đoạn quốc lộ 1A từ ngã ba Thủ Đức (ngã ba Trạm 2) đến ngã ba An Lạc, quận Bình Tân, đi qua địa phận Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, dài 43,1 km.


Xa lộ này được công binh quân đội Hàn Quốc xây dựng năm 1969 – 1970 sau sự kiện Tết Mậu Thân trong Chiến tranh Việt Nam với tư cách là đồng minh của Việt Nam Cộng Hoà nhằm làm đường vành đai bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài Gòn và ngăn cách giữa Sài Gòn với quân cách mạng ở Củ Chi, Hóc Môn.


Hiện nay, đoạn ngã ba Thủ Đức (Ngã ba trạm 2-KDL Suối Tiên) đến ngã tư An Sương của Xa lộ Đại Hàn dài 21,1 km nằm trong tuyến đường xuyên Á nối Thành phố Hồ Chí Minh vàPhnom PenhBangkok. Phần tiếp theo của đường xuyên Á theo quốc lộ 22 qua Củ Chi đến cửa khẩu Mộc Bài tiếp giáp với Campuchia. Tổng chiều dài của đường xuyên Á trong địa phận Việt Nam là 80 km, đoạn trong Thành phố Hồ Chí Minh (đến Củ Chi) dài 43,6 km.


Các khu công nghiệp tập trung hiện nay của Thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu nằm dọc theo hành lang xa lộ Đại Hàn (đường Vành đai 2), gồm các khu công nghiệp Tân Tạo, Tân Bình, Vĩnh Lộc, Tân Thới Hiệp, Linh Trung, Bình Chiểu, Thủ Đức và khu công nghiệp Kỹ thuật cao.


Xa lộ Đại Hàn là con đường quan trọng nối liền miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ.


Quốc lộ 1A:


Quốc lộ 1A (viết tắt QL1A) hay Đường 1 là đường giao thông xuyên suốt Việt Nam. Quốc lộ bắt đầu (km 0) tại cửa khẩu Hữu Nghị Quan(Đồng Đăng- Lạng Sơn) trên biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nó kết thúc tại điểm cuối (km 2301 + 340m) tại thị trấn Năm Căn huyện Ngọc Hiển tỉnh Cà Mau. Quốc lộ có tên này để phân biệt với Quốc lộ 1B là đường rẽ từ Quốc lộ 1A tại thị trấnĐồng Đăng đi về thành phố Thái Nguyên, để phân biệt với Quốc lộ 1D mới được xây dựng năm 2001 là tuyến đường tránh đèo Cù Mông giáp ranh giữa 2 tỉnh Bình Định và Phú Yên và đi vào nội thành thành phố Quy Nhơn. Chiều dài toàn tuyến Quốc lộ 1D là 35 km.


Quốc lộ 1A có tổng chiều dài khoảng 2354km, đi qua 32 tỉnh, thành phố; chiều rộng mặt đường khoảng 10-12m, rải thảm bê tông nhựa, trên toàn tuyến có khoảng 874 cầu lớn nhỏ với tải trọng 25-30 tấn.


Tiền thân của con đường xuyên Việt này mang tên đường Thiên Lý. Quốc lộ 1A được hình thành từng đoạn qua từng thời kỳ, từ thời Việt Nam bị chia cắt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài bên cạnh đường thủy thì con đường này cũng bắt đầu được hình thành. Tuy nhiên phải đến thời nhà Nguyễn sau khi thống nhất đất nước mới tu bổ và hoàn thiện con đường cái quan từ bắc đến nam này, ban đầu đường nhỏ chủ yếu dành cho việc vẫn chuyển người, hàng hóa bằng ngựa. Về sau cùng với sự cai trị của người Pháp con đường được mở rộng, nâng cấp.




Những điều bạn chưa biết về xa lộ Đại Hàn